Những vấn đề cần điều chỉnh trong pháp luật về hợp đồng

3112
Sự bùng nổ của thông tin liên lạc đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống con người. Việc các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và cùng ký kết vào văn bản hợp đồng đã trở nên không tiện dụng và nhiều khi chỉ phù hợp với những hợp đồng đòi hỏi hình thức trang trọng.
Phần mềm kế toán MISA SME – 27 năm số 1 Việt Nam

Định nghĩa về hợp đồng
Hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Dù được hình thành trong lĩnh vực quan hệ xã hội nào thì hợp đồng luôn có những điểm chung sau đây:
Thứ nhất, trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức lá có sự ưng thuận giữa các bên với nhau.
Thứ hai, ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người giao kết có đầy đủ năng lực hành vi để xác lập hợp đồng.
Thứ ba, yếu tố không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải có đối tượng xác định.
Những hạn chế của pháp luật hiện hành về hợp đồng
Một là, thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng của Việt Nam là có sự trùng lặp những lại thiếu nhất quán và không đồng bộ. 
Ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng được quy định ở rất nhiều văn bản. Ngoài những văn bản quy định chung như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì trong từng lĩnh vực cụ thể, việc ký kết và thực hiện hợp đồng còn chịu sự chi phối của các văn bản mang tính chuyên ngành dưới những hình thức khác nhau như: Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm…
Do có sự phân biệt giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự nên ở Việt Nam dường như tồn tại 2 hệ thống pháp luật hợp đồng tách biệt nhau, không có tính liên thông, tính hỗ trợ lẫn nhau. Trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đều có những quy định chung về hợp đồng đã phát sinh trùng lặp trong sự điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Do có sự trùng lặp, mâu thuẩn, không thống nhất nên trong thời gian qua pháp luật về hợp đồng đã gây ra không ít sự vướng mắc, sự lúng túng trong việc áp dụng pháp luật để tiến hành giao kết hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản được ban hành sau Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 nên có nhiều quy định hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn. Thế nhưng thật là đáng tiếc do quan niệm hẹp hòi của chúng ta về quan hệ dân sự và hợp đồng dân sự nên các quy định của Bộ luật này hầu như không được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. 
Hai là, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay pháp luật hợp đồng của Việt Nam chưa tương thích với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. Ở Việt Nam cũng chưa thừa nhận rộng rãi án lệ, tập quán, thông lệ thương mại là nguồn của pháp luật hợp đồng. 
Ba là, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật về hợp đồng chưa giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật hợp đồng với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp… cũng như các điều kiện giao dịch mà các doanh nghiệp tự ban hành.
Những thiếu sót, bất cập, yếu kém của pháp luật hợp đồng ở nước ta đặt ra yêu cầu phải tiến hành một cuộc cải cách pháp luật hợp đồng cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay. 
Quan điểm cải cách pháp luật về hợp đồng trong thời gian tới
Việc sửa đổi các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự phải nhằm mục đích bảo đảm, bảo vệ quyền tự do hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Trong nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, quyền tự do hợp đồng phải được ghi nhận và bảo đảm. Vả lại trong dân gian ta có câu: “Việc dân sự cốt ở đôi bên”. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao kết hợp đồng, tự do thỏa thuận, tự định đoạt và hợp đồng được xác lập chính trên cơ sở của sự tự do thỏa thuận.
Việc cải cách pháp luật hợp đồng phải đáp ứng được nhu cầu thống nhất điều chính pháp luật với các quan hệ hợp đồng. Để đáp ứng được yêu cầu này, Bộ luật Dân sự cần được xây dựng thành bộ luật gốc điều chỉnh quan hệ từ trong đời sống xã hội.
Khi Bộ luật Dân sự đã được xây dựng theo hướng thật sự là bộ luật gốc thì các luật chuyên ngành sẽ không phải quy định lại những gì mà Bộ luật Dân sự đã quy định mà chỉ quy định về những điều mà Bộ luật Dân sự chưa quy định hoặc chỉ quy định về những cái đặc thù trong từng chúng loại hợp đồng như hợp đồng tín dụng, hợp đồng thuê mua, hợp đồng trong lĩnh vực viễn thông, hợp đồng chuyển giao công nghệ,…
Để bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về hợp đồng nên điều chỉnh lại cơ cấu tổng thể của pháp luật hợp đồng hiện nay. Các quy định có tính chất chung chỉ nên quy định trong Bộ luật Dân sự. Trong bộ luật này cần có những quy định chung có tính chất khải quát cao, thể hiện rõ quyền tự do hợp đồng để bảo đảm tính ổn định cao của Bộ luật Dân sự sau lần sửa đổi, bổ sung này. Không nên đưa vào Bộ luật Dân sự các quy định về các loại hợp đồng chuyên biệt mà để cho các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định. Nếu có đưa một loại hợp đồng nào đó vào trong Bộ luật Dân sự thì không nên quy định ở pháp luật khác nữa để tránh trùng lặp, chồng chéo.
Thêm nữa, cần tuyên bố trong Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật Dân sự về việc hết hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 vì nó đã hoàn thành “sứ mạng lịch sử” của mình và sự hiện diện của nó là hoàn toàn không còn cần thiết nữa.
Ngoài ra, cần bổ sung các quy định mới về giá trị của điều lệ, quy chế và điều kiện giao dịch của doanh nghiệp, pháp nhân, tổ chức trong mối quan hệ với pháp luật hợp đồng; cần làm cho pháp luật hợp đồng của Việt Nam tương thích với pháp luật và tập quán thương mại của quốc tế.

Hướng hoàn thiện cụ thể chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự nên dùng khái niệm hợp đồng để thay thế cho khái niệm hợp đồng dân sự (như cách dùng hiện nay) để mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng sang cả quan hệ hợp đồng trong kinh doanh và quan hệ hợp đồng lao động. Hiện, do Điều 394 Bộ luật Dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự không đề cập gì đến mục đích của hợp đồng mà những quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự phải được áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng. Nhưng trên thực tế vẫn phổ biến quan niệm cho rằng các quy định trong Bộ luật Dân sự chỉ áp dụng cho quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa là những hợp đồng được ký kết để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng mà thôi. 
Thứ hai, Thủ tục giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự cũng phải được quy định hết sức cụ thể và minh bạch để các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là các quan hệ hợp đồng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể được thiết lập một cách mau chóng, đơn giản mà vẫn bảo đảm an toàn về mặt pháp lý. Muốn vậy, Bộ luật Dân sự phải quy định chi tiết về các vấn đề sau: Các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng; trách nhiệm pháp lý của người đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm phát sinh trách nhiệm này; những trường hợp sữa đổi, bổ sung, rút lại hay chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 
Thêm vào đó, Bộ luật Dân sự cũng cần quy định rõ về người có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Vấn đề đại diện và ủy quyền để thiết lập và thực hiện các giao dịch tuy đã được quy định tại chương VI phần thứ nhất và mục 12 chương II phần thứ ba của Bộ luật Dân sự nhưng cần được cụ thể hóa trong phần quy định về hợp đồng. Bởi đây là vấn đề hết sức phức tạp trong thực tế ký kết hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng trong kinh doanh. Chúng tôi cho rằng việc ủy quyền và ủy quyền lại phải được áp dụng rộng rãi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng mà không phụ thuộc vào hợp đồng đó được ký kết bằng phương thức trực tiếp hay gián tiếp; hợp đồng đó có phải đăng ký hoặc chứng nhận của công chứng hay không. 
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự, một mặt cần có quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hướng thừa nhận các thông tin được các bên gửi cho nhau qua đường điện tín (telex, fax) và các hình thức thông tin kỹ thuật số (thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác) là văn bản hợp đồng, mặt khác hạn chế quy định cứng nhắc những loại hợp đồng bắt buộc phải ký kết dưới hình thức văn bản mà nên đề cao quyền tự thỏa thuận của các bên để lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp. 
Thứ ba, Bộ luật Dân sự cần bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử ở nước ta. Sự bùng nổ của thông tin liên lạc đã tác động mạnh đến mọi mặt đời sống con người. việc các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và cùng ký kết vào văn bản hợp đồng đã trở nên không tiện dụng và nhiều khi chỉ phù hợp với những hợp đồng đòi hỏi hình thức trang trọng. Tham gia các giao dịch với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin điện tử đang ngày càng phổ biến và trở nên một yếu tổ không thể thiếu của kinh doanh hiện đại. Các khải niệm về “kinh tế số”, “thương mại điện tử”, “siêu thị ảo”, “văn phòng ảo”… đã được bổ sung vào hệ ngôn ngữ phổ thông của rất nhiều quốc gia. Lợi thế to lớn của thương mại điện tử là không thể phủ nhận. Để phát triển thương mại điện tử, Bộ luật Dân sự cần phải giải quyết được các vấn đề pháp lý sau: Hình thức hợp đồng ký qua mạng internet phải như thế nào? Liệu các hình thức thông tin kỹ thuật số, như thư điện tử chẳng hạn, có được coi là văn bản hợp đồng không? Hiện nay, trong các văn bản pháp luật của Việt Nam chỉ có duy nhất có Luật Thương mại thừa nhận thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là văn bản hợp đồng. Rất tiếc quy định này được cơ cấu riêng trong mục 2 – Mua bán hàng hóa làm chúng ta không rõ quy định đó có được áp dụng cho các quan hệ hợp đồng khác hay không? Ngoài ra cũng cần phải giải quyết rõ giá trị chứng cứ của văn bản điện tử ra sao khi có tranh chấp phát sinh từ “hợp đồng điện tử” này?
Thứ tư, Trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) phải quy định bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp đồng đã được quy định hiện nay. Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định riêng về 13 loại hợp đồng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều quan hệ hợp đồng mới đã hình thành, nhiều biến thể của các hợp đồng thông dụng đã xuất hiện mà chưa được Bộ luật Dân sự quy định như: hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; hợp đồng mua bán hoặc cho thuê doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh; hợp đồng cho thuê tài chính (leasing); hợp đồng xây dựng; hợp đồng kỹ thuật; các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; hợp đồng đại lý, ủy thác, môi giới; hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế; hợp đồng tín thác…

Theo khoisudoanhnghiep.vn

Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
Không