Việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt ở nhiều nước trên thế giới để kiềm chế lạm phát và suy thoái kinh tế đã có tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp.Để hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các nước chủ yếu tập trung vào 4 nhóm giải pháp, bao gồm: thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ tín dụng, chính sách thuế và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Thành lập các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
Việc thành lập quỹ thường được trích từ nguồn ngân sách trung ương
– Trung Quốc: Năm 2010, trước tình hình khó khăn trong tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Doanh nghiệpNVV), đặc biệt là trong bối cảnh chính sách tiền tệ thắt chặt, Chính phủ Trung Quốc đã thành lập một quỹ 10,89 tỷ NDT từ ngân sách trung ương, cao hơn gấp đối so với khoản hỗ trợ đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏnăm 2008 (4,99 tỷ NDT). Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng đã thành lập một quỹ đặc biệt gọi là “Quỹ Xanh” trị giá 10,6 tỷ NDT. Quỹ này chỉ dành cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong việc đổi mới công nghệ nhằm cắt giảm khí thải cácbon và tiêu dùng năng lượng.
– Ấn Độ: Trong ngân sách tài khoá 2009-2010, nhằm hỗ trợ cho các Doanh nghiệp quy mô nhỏ, đặc biệt là các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu trước các áp lực về lãi suất trong bối cảnh lạm phát cao, Chính phủ nước này đã thành lập một quỹ đặc biệt (Fund Trust) trị giá 40 tỷ rupi. Quỹ này được phân bổ về ngân hàng phát triển các ngành công nghiệp nhỏ Ấn Độ và một số ngân hàng, công ty tài chính nhà nước để thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp quy mô nhỏ.
– Hàn Quốc: Hàn Quốc rất chú trọng đến việc hỗ trợ cho các Doanh nghiệp, đặc biệt là Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong lĩnh vực ứng dụng và phát triển công nghệ. Bất kỳ Doanh nghiệp nào có sản phẩm đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ được Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ thông qua hình thức:
• Ưu tiên bán cho các cơ quan của Chính phủ;
• Được hỗ trợ kinh phí từ quỹ hỗ trợ phát triển của Chính phủ;
• Được ưu tiên tiếp cận vốn từ các quỹ phát triển công nghệ của các ngân hàng thương mại;
• Được quyền ưu tiên quảng bá tại các chiến dịch truyền thông, hội chợ triển lãm công nghệ.
Hỗ trợ tín dụng
Hỗ trợ tín dụng là một công cụ chính sách đã và đang được sử dụng tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là vào các giai đoạn áp lực lạm phát cao khiến lãi suất tăng gây khó khăn cho các Doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn cho hoạt động sản xuất và kinh doanh, hoặc vào các giai đoạn suy thoái kinh tế. Các chính sách hỗ trợ tín dụng chủ yếu tập trung hỗ trợ cho các Doanh nghiệpNVV. Hỗ trợ tín dụng thường được thực hiện dưới một số dạng như: Cung cấp bảo lãnh tín dụng, cho vay trực tiếp và hỗ trợ lãi suất.
Bảo lãnh tín dụng
– Trung Quốc: Trung Quốc bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong năm 2008-2009 trị giá 1 tỷ NDT. Tiếp đến, để khuyến khích xuất khẩu trong bối cảnh lạm phát trong nước tăng cao và chính sách tiền tệ thắt chặt trong giai đoạn cuối năm 2010 đến nay, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Nghị định về việc bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó quy định các Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này sẽ được tiếp cận các khoản vay ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại với lãi suất do NHTW chỉ định.
– Hàn Quốc: Hệ thống bảo lãnh tín dụng được luật hoá từ năm 1961 với mục tiêu giảm nhẹ khó
khăn tài chính cho các Doanh nghiệpNVV. Năm 1989, Hàn Quốc đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghệ để triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ tài chính cho Doanh nghiệp công nghệ mới, chuyên cung cấp các dịch vụ bảo lãnh tín dụng đối với các Doanh nghiệp, đặc biệt ưu tiên các Doanh nghiệp vừa và nhỏcó triển vọng tốt, ứng dụng công nghệ sạch… nhưng không có đủ hoặc không có tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, trong bối cảnh giá xăng dầu và một số nguyên liệu cơ bản tăng cao và khủng hoảng tài chính thế giới 2008-2009, Chính phủ Hàn Quốc đã tăng bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏlên 35,7 tỷ won.
Ngày 23/6/2011, Chính phủ Hàn Quốc khẳng định, sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng các ngành công nghiệp tại các vùng đô thị địa phương, với mức hỗ trợ tín dụng vào khoảng 300 tỷ won trong năm 2011.
– Ấn Độ: 2008-2009, Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện cung cấp 3.500 triệu rupi bảo lãnh tín dụng cho các công ty xuất khẩu. Đối với các Doanh nghiệpNVV, mỗi Doanh nghiệp có thể nhận được một khoản bảo lãnh tín dụng từ 5-10 triệu rupi.
Ngoài ra, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Pakistan cũng đều thực hiện bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong giai đoạn 2008-2009.
Hỗ trợ lãi suất
• Thái Lan: Trong bối cảnh giá dầu, vàng và lương thực trên thế giới tăng cao, song song với việc thắt chặt chính sách tiền tệ, Chính phủ Thái Lan cũng đã thực hiện một số biện pháp hỗ trợ các Doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa và nhỏnhằm giảm áp lực về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, Chính phủ phối hợp với Ngân hàng phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏthực hiện hỗ trợ khoản vay 2 năm với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường (3%/năm) cho các Doanh nghiệpNVV, mức cho vay tối đa không quá 10 triệu bath/Doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ cũng hỗ trợ lãi suất 0,75%/năm bảo lãnh tín dụng đối với các Doanh nghiệp có vốn kinh doanh nhỏ, các khoản bảo lãnh này được thực hiện trong 2 năm .
• Ấn Độ: Thực hiện hỗ trợ 1% lãi suất đối với các khoản vay tại các ngân hàng của các hộ nông dân và các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ nước này cũng thực hiện hỗ trợ lãi suất cho lĩnh vực công nghiệp thép; Đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, Chính phủ đã thông qua “Kế hoạch hỗ trợ lãi suất” nhằm đẩy nhanh tái cơ cấu trong lĩnh vực năng lượng để giải quyết những khó khăn trước bối cảnh giá dầu thế giới tăng cao. Đối với các công ty xuất khẩu quy mô nhỏ, năm 2009, Chính phủ Ấn Độ đang thực hiện hỗ trợ lãi suất 2% (mức tín dụng xuất khẩu hiện nay mà các Doanh nghiệp xuất khẩu nói chung đang phải chịu là 9%).
• Trung Quốc: Mới đây Chính phủ Trung Quốc đã thông qua một chương trình hỗ trợ lãi suất cho các Doanh nghiệp. Trong đó, hỗ trợ lãi suất đối với các Doanh nghiệp trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và nguyên liệu công nghệ cao, nhằm khuyến khích các Doanh nghiệp tìm ra các năng lượng và nguyên liệu mới trước nguy cơ khủng hoảng năng lượng và nguyên liệu thế giới. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ lãi suất này cũng khuyến khích sử dụng năng lượng gió, năng lượng mặt trời và ô tô sử dụng năng lượng hiệu quả. Chính phủ Trung quốc cũng đang xem xét một “chương trình hỗ trợ lãi suất” cho các Doanh nghiệpNVV, với mức hỗ trợ khoảng 2%, ngang với lãi suất mà hiện nay các Doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc đang tiếp cận được với các khoản vay của ngân hàng. Chương trình này, một mặt làm giảm áp lực về chi phí vay vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệpNVV, mặt khác cũng làm giảm các chỉ trích từ xã hội về việc Nhà nước quá ưu đãi các Doanh nghiệp quốc doanh trong việc tiếp cận vốn (đóng góp của các Doanh nghiệp quốc doanh vào GDP chỉ chiếm khoảng 25%, trong khi họ nhận được khoảng 65% tổng cho vay của hệ thống ngân hàng, với lãi suất thấp hơn khoảng 2% so với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh).
• Hàn Quốc: Chính phủ nước này trong giai đoạn 1982-1986 và 1997 đã thực hiện hỗ trợ lãi suất cho các Doanh nghiệp trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trong nước, đồng thời gia tăng sức cạnh tranh của họ với các Doanh nghiệp nước ngoài.
Cho vay trực tiếp
Nhiều nước như: Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc… đã thực hiện chính sách cho vay trực tiếp từ chính phủ với các Doanh nghiệp gặp khó khăn trong bối cảnh chính sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách thuế
• Ấn Độ: Liên tục từ năm 2008 đến nay, Chính phủ nước này đã thực hiện rất nhiều chính sách thuế để hỗ trợ các Doanh nghiệp, trong đó tập trung vào các Doanh nghiệp vừa và nhỏvà các Doanh nghiệp xuất khẩu, chẳng hạn: Giảm thuế tiêu thụ đặc biệt; giảm thuế và hoàn thuế dịch vụ; miễn thuế nhập khẩu đối với dầu mỏ sử dụng trong lĩnh vực năng lượng.
– Philippines: Các Doanh nghiệp vừa và nhỏđược miễn thuế thu nhập và thuế nhập khẩu trong vòng 6 năm (từ năm 2008).
– Trung Quốc: Thực hiện giảm thuế đối với các hoạt động xuất khẩu (2008-2009). Từ tháng 11/2010 đến nay, Chính phủ Trung Quốc thực hiện hoàn thuế VAT cho các Doanh nghiệp xuất khẩu.
– Nhật Bản: Thực hiện giảm thuế thu nhập Doanh nghiệp cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏxuống còn 18%/năm.
– Hàn Quốc: Thực hiện hoàn thuế đối với các Doanh nghiệpNVV. Chính sách này được thực hiện từ những năm 1980. Trong đó, chủ yếu tập trung cho các Doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D), bao gồm: hoàn 15% chi phí đầu tư cho R&D và đào tạo nhân lực trong mỗi năm đóng thuế; giảm thuế nhập khẩu; miễn thuế VAT, thuế trước bạ đối với nhà cửa và đất đai phục vụ các mục tiêu R&D.
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Nhà tháo gỡ khó khăn về vốn cho Doanh nghiệp, nhiều nước tập trung vào phát triển thị trường trái phiếu Doanh nghiệp (Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc…) và đối phó với tình trạng tiếp cận vốn khó khăn của Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong bối cảnh lạm phát tăng cao, chính sách tiền tệ thắt chặt, một số nước cũng cho phép phát hành trái phiếu và giấy nợ hợp nhất.
Trung Quốc đã tiến hành đẩy mạnh một loạt các cải cách liên quan đến việc hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu Doanh nghiệp. Trong đó bao gồm một số biện pháp hỗ trợ các Doanh nghiệp vừa và nhỏtiếp cận vốn trên thị trường trái phiếu như: Cho phép các Doanh nghiệp vừa và nhỏcủa Trung Quốc tiến hành phát hành trái phiếu hợp nhất (SME joint bond). Thông thường một ngân hàng hoặc một Doanh nghiệp có hạng tín nhiệm cao (thường là AAA hoặc AA+) đứng ra bảo lãnh phát hành cho các Doanh nghiệpNVV. Hoạt động liên kết phát hành trái phiếu, hay còn gọi là trái phiếu hợp nhất của Trung Quốc được đánh giá cao do một mặt giúp các Doanh nghiệp vừa và nhỏtiếp cận được thị trường vốn, mặt khác giúp giảm chi phí phát hành. Từ tháng 11/2009, Doanh nghiệp vừa và nhỏđược phép phát hành cả giấy nợ hợp nhất (SME joint note) trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng.
Nhận xét chung
Để cải thiện khả năng hoạt động và kinh doanh của Doanh nghiệp, đồng thời giải quyết những vấn đề hiện đang tồn tại trong các Doanh nghiệp hiện nay, qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc hỗ trợ các Doanh nghiệp, đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa và nhỏtrong bối cảnh chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc suy thoái kinh tế, có thể thấy:
Một là, tiếp tục rà soát lại chính sách thuế để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách và tạo điều kiện cho Doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Hai là, triển khai và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chương trình bảo lãnh tín dụng cho các Doanh nghiệp, trong đó đặc biệt quan tâm đến các Doanh nghiệp vừa và nhỏ và các Doanh nghiệp xuất khẩu. Tiếp tục khuyến khích thành lập các quỹ hỗ trợ Doanh nghiệp tại các địa phương.
Ba là, việc thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất đối với Doanh nghiệp cần tập trung vào một số ngành mục tiêu và đặc thù, đúng địa chỉ, đúng đối tượng.
Bốn là, điều hành chính sách tiền tệ kịp thời giúp tháo gỡ khó khăn cho Doanh nghiệp trong tình hình hiện nay, giúp Doanh nghiệp có thể tính toán, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như lập dự phòng rủi ro.
Năm là, phát triển thị trường trái phiếu Doanh nghiệp. Việc huy động vốn qua kênh trái phiếu giúp Doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn trong việc sử dụng vốn phù hợp với từng giai đoạn, giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài tổ chức tín dụng.
Sáu là, khuyến khích đầu tư theo mô hình công – tư giúp các Doanh nghiệp tìm được nguồn vốn trong bối cảnh khó khăn.
Bảy là, khuyến khích tái cấu trúc Doanh nghiệp thông qua hình thức mua lại và sáp nhập (M&A), đặc biệt với các Doanh nghiệp trong ngành tài chính – ngân hàng, bất động sản hoặc xây dựng để phát triển và tăng năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh.
ThS. Đinh Thị Hải Bình
Theo Tạp chí tài chính
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông








0904 885 833
https://sme.misa.vn/