Trong thời gian rất ngắn, những tỷ lệ nợ xấu khác nhau liên tục được Ngân hàng Nhà nước công bố với mức chênh lệch tuyệt đối hàng chục nghìn tỷ đồng.Giải thích về sự khác biệt này, ông Nguyễn Hữu Nghĩa, quyền Chánh Thanh tra Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cho rằng có sự khác nhau về việc ghi nhận nợ xấu tại từng ngân hàng.
Con số nợ xấu được ngân hàng nhà nước công bố là 3,6%, 10% và 4,47%. Tại sao các con số lại rất khác nhau?
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành bao gồm tiêu chí định lượng (chẳng hạn thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ,…) và tiêu chí định tính (ví dụ, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng). Việc xác định nợ xấu bao gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do năng lực quản trị rủi ro hạn chế, việc sử dụng các tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến sự tùy tiện trong xác định và ghi nhận nợ xấu của tổ chức tín dụng
Thứ hai, một số Tổ chức tín dụng không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu thấp hơn thực tế để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro
Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các Tổ chức tín dụng nên dẫn đến có sự khác nhau về nhóm nợ của một khách hàng quan hệ tại nhiều Tổ chức tín dụng.
Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do Tổ chức tín dụng báo cáo thường thấp hơn nợ xấu theo kết quả giám sát Tổ chức tín dụng và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả thanh tra tại chỗ của ngân hàng nhà nước. Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với một số NHTMCP yếu kém thuộc diện phải cơ cấu lại cho thấy nợ xấu thực tế của các Tổ chức tín dụng có thể cao hơn nhiều con số của Tổ chức tín dụng báo cáo.
Có vẻ như hệ thống ngân hàng Việt Nam không có chuẩn mực về phân loại nợ?
Trên thực tế không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các hệ thống tiêu chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau, thậm chí ngay cả đối với cùng một ngân hàng. Do có sự khác biệt giữa các hệ thống phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, nên khi xác định, đo lường, phân tích, đánh giá nợ xấu phải xem xét, hiểu được hệ thống phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được sử dụng.
Việc so sánh số liệu nợ xấu dựa trên các tiêu chí phân loại nợ khác nhau không có nhiều ý nghĩa và có thể dẫn đến nhận định không hợp lý. Mọi sự so sánh nợ xấu phải bảo đảm tính đồng nhất về hệ thống tiêu chí phân loại nợ. Sự khác nhau về phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro làm cho việc so sánh mức độ yếu kém hay mức độ lành mạnh giữa các ngân hàng hay các hệ thống ngân hàng trở nên khó khăn hơn.
Do không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, vì vậy các cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng thường quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với đặc điểm cụ thể của quốc gia. Tình trạng tồn tại nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt Nam vì những nguyên nhân nói trên. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chính thức của toàn hệ thống ngân hàng do cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng công bố và được chấp nhận do được giải thích rõ ràng và pháp luật quy định cụ thể về phương pháp phân loại nợ.
Điều này có thể hiểu là chính các NHTM cũng không rõ ràng, thành thật và minh bạch trong con số nợ xấu của ngân hàng mình. Thanh tra ngân hàng nhà nước có giải pháp nào cho vấn đề này?
Trong điều kiện bình thường, Thanh tra ngân hàng nhà nước chỉ có số liệu thông qua hệ thống báo cáo thống kê, việc phát hiện ra những vi phạm về phân loại nợ của các Tổ chức tín dụng chỉ có thể phát hiện được qua các đoàn thanh tra tại chỗ. Hiện nay có hơn 100 Tổ chức tín dụng nên cũng không thể trong vòng một năm ngân hàng nhà nước có thể tiến hành thanh tra đồng loạt để phát hiện xử lý triệt để về những vi phạm pháp luật trong quy định phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro.
Tuy nhiên, để các Tổ chức tín dụng thực hiện đúng quy định phân loại nợ và báo cáo cho ngân hàng nhà nước số liệu nợ xấu chính xác hơn, hiện nay ngân hàng nhà nước đang triển khai các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng và phát triển mạnh cơ sở dữ liệu chung về khách hàng có quan hệ tín dụng với các Tổ chức tín dụng. Đồng thời có biện pháp yêu cầu Tổ chức tín dụng điều chỉnh số liệu nợ xấu phù hợp với số liệu nợ xấu và bằng chứng qua thanh tra, giám sát.
Định hướng xử lý nợ xấu trong hệ thống của ngân hàng nhà nước từ nay đến cuối năm và dài hạn hơn là gì?
Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi thông dòng vốn trong hệ thống các Tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải pháp sau đây cần được triển khai:
Một là, Tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng để khách hàng giảm bớt khó khăn tài chính tạm thời và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo nguồn thu mới trả nợ Tổ chức tín dụng.
Hai là, Tổ chức tín dụng tích cực trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật, đồng thời bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu hồi vốn. Tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam rất lớn nên một trong những biện pháp căn cơ và phải làm ngay đó là tích cực đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu, bán các tài sản bảo đảm để thu hồi vốn tạo thanh khoản cho hệ thống, đẩy mạnh tín dụng cho nền kinh tế
Ba là, ngân hàng nhà nước rà soát, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp tín dụng và an toàn hoạt động ngân hàng. Dự kiến tháng 8, ngân hàng nhà nước sẽ ban hành thông tư mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro và tích cực nghiên cứu hoàn thiện quy chế về cấp tín dụng, cho vay phù hợp hơn với hoạt động thực tiễn của ngân hàng
Bốn là, ngân hàng nhà nước sẽ tăng cường hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm các Tổ chức tín dụng tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín dụng.
Năm là, thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ.
Ngoài ra, một số giải pháp hỗ trợ khác cần triển khai bao gồm: các bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ, trong đó bên cạnh các giải pháp miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp thuế cần có giải pháp hữu hiệu đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hóa, giảm lượng hàng tồn kho và kích thích đầu tư, tiêu dùng trong nước.
Ngân hàng nhà nước tích cực phối hợp với các bộ, ngành phân tích, đánh giá hoạt động của các ngành, lĩnh vực để xây dựng, triển khai các chương trình tín dụng phù hợp, nhờ đó đẩy nhanh tiến độ giải phóng hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bộ Tài chính chủ trì tổ chức triển khai có hiệu quả Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn NHTM. Trường hợp cần thiết, xem xét, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các điều kiện, thủ tục bảo lãnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn ngân hàng.
Đặc biệt, cần gắn kết hết sức chặt chẽ quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, bởi một bộ phận không nhỏ nợ xấu hiện nay nằm ở khối này.
Hồng Dung
Theo Đầu tư chứng khoán
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông








0904 885 833
https://sme.misa.vn/