Kiến thức Tài chính kế toán Quản lý hiệu quả vốn đầu tư ngước ngoài

Quản lý hiệu quả vốn đầu tư ngước ngoài

300
Phần mềm kế toán MISA SME – 27 năm số 1 Việt NamLà một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong 25 năm qua, nhưng gần đây, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bộc lộ nhiều bất cập. Để quản lý hiệu quả dòng vốn này, cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành cũng như sự kiên quyết trong công tác thanh, kiểm tra.
FDI luôn chiếm 20-25% tổng vốn đầu tư xã hội: Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, FDI chiếm 30%; giai đoạn 2001- 2005 là 16%; giai đoạn 2006- 2010 là 23% tổng vốn đầu tư xã hội.
Rủi ro từ cơ cấu vốn
Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và đầu tư) Đỗ Nhất Hoàng cho biết, tổng vốn đầu tư của DN FDI được hình thành từ hai nguồn chính: Vốn tự có và vốn vay. Vốn tự có là phần vốn do các bên Việt Nam và bên nước ngoài góp để hình thành dự án đầu tư. Vốn này có thể bằng tiền mặt, tài sản cố định… Vốn vay bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài.
Việc sử dụng vốn đầu tư của DN FDI tương tự như một DN trong nước. Tuy nhiên điều mà các nhà quản lý quan tâm đối với DN FDI chính là các dòng trung chuyển vốn ra nước ngoài qua kênh chính thức và phi chính thức. Điều này thể hiện rõ ở mức lợi nhuận mà theo báo cáo thì đa phần lỗ là của các DN FDI hiện nay.
Theo dự thảo đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước soạn thảo, trong một DN FDI, vốn vay quá nhiều so với vốn góp sẽ làm giảm tính cam kết và sự gắn kết của nhà đầu tư nước ngoài trong dự án đầu tư. Trường hợp vay nước ngoài, việc tăng chi phí lãi khoản vay có thể là một kênh của chuyển giá, gây khó khăn cho việc đánh giá hiệu quả đầu tư, gây thất thu ngân sách. Ngoài ra, khi DN FDI đi vay nước ngoài nhưng trên danh nghĩa vẫn là pháp nhân Việt Nam nên các rủi ro trên thị trường quốc tế khi DN không trả nợ được thuộc về phía Việt Nam.
Cơ cấu vốn trong DN FDI cũng là một trực trạng đáng bàn. Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 12-2011, kết quả tổng hợp 4.095 DN FDI, tổng nợ phải trả năm 2010 của những DN này là 411.180 tỷ đồng, chiếm 57,8% so với tổng nguồn vốn. Như vậy, tỷ lệ góp vốn bằng tiền mặt và hàng hóa chỉ chiếm 42,2% tổng nguồn vốn. Sự tăng lên của tổng nguồn vốn đầu tư của DN FDI chủ yếu bằng nguồn nợ phải trả, đặc biệt là nợ ngắn hạn cho thấy hoạt động kinh doanh của DN FDI thiếu tính bền vững, dòng vốn thực hiện phụ thuộc nhiều vào vốn vay, có xu hướng tạo gánh nặng cho quốc gia.
Hiệu quả đóng góp vào kinh tế quốc dân của dòng vốn FDI biểu hiện ở chỉ tiêu đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước. Năm 2000 thu từ DN FDI là 4.735 tỷ đồng. Năm 2005 là 19.081 tỷ đồng, năm 2009 là 50.659 tỷ đồng. Tỷ lệ thu trong nước từ khu vực FDI năm 2000 là 10,24%, tăng lên 15,92% năm 2005 và 18,78% năm 2009.
Tỷ trọng khu vực FDI trong GDP đã tăng từ 13,28% năm 2000 lên 15,99% năm 2005 và 18,33% năm 2009.
Chuyển giá qua nâng lãi suất vay
Từ trước tới nay, hiệu quả dòng vốn trong DN FDI mới chỉ được phân tích ở dòng vốn vay trong nước, chuyển giá qua lỗ giả mà chưa đề cập nhiều ở khía cạnh nguồn vốn vay nước ngoài.
Theo Ngân hàng Nhà nước, chi phí vay cho các khoản vay nước ngoài của DN FDI xấp xỉ so với mức chi phí vay của toàn nền kinh tế. Trong năm 2009 và 2011, chi phí vay của nền kinh tế và DN FDI là tương đương nhau, trung bình ở mức xấp xỉ 4%/năm. Riêng trong năm 2010 chi phí lãi vay của các khoản vay của DN FDI cao hơn mức trung bình của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước còn nhận định hoạt động vay nước ngoài của DN FDI có thể là một kênh để DN thực hiện chuyển giá qua nâng cao lãi suất vay. Đây là một xu thế cần quan tâm trong thời gian tới để có chính sách quản lý thích hợp.
Theo Dự thảo đề án nâng cao hiệu quả quản lý dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phần lớn dòng vốn từ các khoản vay nước ngoài của DN FDI là để bù đắp cho các chi phí trả gốc và lãi cho hoạt động vay trung và dài hạn nước ngoài. Trong năm 2009 tổng mức trả nợ cả gốc và lãi cho các khoản vay nước ngoài của DN FDI chỉ chiếm khoảng 70% so với số vốn.
Như vậy, DN FDI chỉ còn 30% số vốn để sử dụng vào việc mở rộng, phát triển sản xuất. Tuy nhiên đến năm 2011 tỷ lệ này đã tăng đáng kể lên mức trên 90%. Điều này cho thấy, phần lớn hoạt động vay nước ngoài của DN không phải để đầu tư, mở rộng sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam mà chỉ để trả lãi của các khoản vay nước ngoài trung và dài hạn của khối DN này.
Về thực trạng dòng vốn vay trong nước, theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước tính đến ngày 29-2-2012, tổng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đối với dự án có vốn FDI khoảng 3 tỷ USD, chiếm 11,2% tổng dư nợ ngoại tệ của toàn hệ thống ngân hàng. Về dư nợ cho vay bằng VND, tỷ lệ này là 79%.
Ngân hàng Nhà nước nhận định, việc cho vay đối với DN FDI khá phức tạp. Đơn cử như các trường hợp công ty mẹ của DN ở nước ngoài nên thủ tục đối chiếu hồ sơ vay vốn của ngân hàng thường kéo dài và tốn kém, trong khi việc thẩm định năng lực của công ty mẹ và nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn do thông tin không đầy đủ và không đáng tin cậy.
Ngoài ra, việc xử lý nợ cũng gặp hạn chế do nhiều tài sản đảm bảo là máy móc, thiết bị chuyên dụng, thuộc nhóm thiết bị chuyển nhượng có điều kiện nên khả năng chuyển nhượng thấp hoặc chỉ có thể thanh lý với giá thấp trong khi nhiều dự án có quy mô lớn, nhu cầu vốn cao, thậm chí có những trường hợp khi xảy ra rủi ro, nhà đầu tư bỏ về nước.
Rõ ràng, việc quản lý sao cho hiệu quả dòng vốn FDI tại Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết, không chỉ làm lành mạnh môi trường hoạt động và cạnh tranh chung của DN mà còn giúp Nhà nước chống thất thu, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Cần chuẩn hóa công tác thống kê số liệu đầu tư nước ngoài
Trong phạm vi liên quan đến công tác quản lý dòng vốn, Ngân hàng Nhà nước cần chú trọng việc tăng cường và nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát các vấn đề liên quan đến lĩnh vực ngân hàng của DN FDI như hoạt động chuyển tiền qua ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán, chuyển vốn, lợi nhuận về nước, tham gia đầu tư của DN FDI. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và áp dụng nghiêm túc chế tài đối với việc vi phạm chế độ báo cáo thống kê, từng bước chuẩn hóa công tác thống kê số liệu đầu tư nước ngoài.

Ông Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài: Hình thành hệ thống thu thập, xử lý thông tin
Công tác thống kê về FDI là một yếu tố quan trọng trong việc xác định nguồn vốn của DN FDI. Tuy nhiên từ trước tới nay công tác này chưa cập nhật, thiếu chính xác, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, gây khó khăn cho nghiên cứu, phân tích tình hình, đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp thích hợp.
Do vậy, cần đầu tư và không ngừng nâng cấp trang thiết bị của Trung tâm thông tin FDI của Cục Đầu tư nước ngoài đảm bảo công nghệ hiện đại, thực hiện phương thức thu thập, xử lý thông tin theo chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra cần bố trí đủ kinh phí và nhân lực có trình độ chuyên môn cao để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cũng như độ chính xác của thông tin. Nhằm đạt hiệu quả cao nhất, các dữ liệu, thông số của Trung tâm cần được nối mạng với các bộ, cơ quan Hải quan, Thuế, chính quyền tỉnh, thành phố, ban quản lý khu công nghiệp và DN FDI để cập nhật thông tin hàng ngày, diễn biến từng tuần, từng tháng, từ đó đưa ra đánh giá thực trạng, phân tích nhân tố tác động, đề ra biện pháp điều chỉnh và khi cần thiết kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản luật pháp.

Ông Quách Ngọc Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Bổ sung quy định pháp luật
Luật Đầu tư và văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư cần được bổ sung một số quy định nhằm làm rõ các hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh, DN liên doanh và DN 100% vốn đầu tư nước ngoài, quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng điều kiện đầu tư theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam nhằm giải quyết những bất cập, thiếu thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước về cách hiểu và áp dụng cam kết.
Liên quan đến các quy định về thủ tục đầu tư, cần bổ sung, sửa đổi một số quy định về thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư theo hướng quy định rõ nội dung hồ sơ, trình tự, thời gian thực hiện và cơ quan có trách nhiệm giải quyết. Đặc biệt là những thủ tục quy định về thực hiện dự án đầu tư, cần bổ sung một số quy định nhằm giải quyết các vướng mắc liên quan đến thủ tục góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các DN Việt Nam, thủ tục chuyển nhượng dự án, thủ tục thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, thủ tục thay đổi địa điểm kinh doanh, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư và chuyển đổi hình thức DN, thủ tục thanh lý, phá sản DN, thủ tục tạm ngừng và chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư…

Ông Vũ Đại Thắng, Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư:Thường xuyên thanh tra đột xuất
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý dòng vốn, không thể thiếu cơ chế giám sát, thanh tra. Công việc này cần được thực hiện thường xuyên với các chế tài xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm. Các bộ, ngành liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước… và các địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành thường kỳ cũng như đột xuất, ưu tiên thời gian tập trung thanh tra các vấn đề nổi cộm, phát sinh, những lĩnh vực đầu tư tồn tại nhiều bất cập. Sau quá trình thanh tra, kiểm tra cần kiến nghị cấp có thẩm quyền có các biện pháp xử lý vi phạm của DN FDI một cách kiên quyết, triệt để, thích đáng đảm bảo thực hiện đúng chủ trương của Nhà nước là bên cạnh tạo mô

i trường đầu tư nước ngoài thuận lợi nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ pháp luật, bình đẳng và cùng có lợi. 

Song Trân

Theo Báo Hải Quan

Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
Không