Để một nền kinh tế thực sự thị trường hơn, có lẽ chúng ta phải nhìn nhận lại vai trò và định hướng của mô hình Tập đoàn Kinh tế.
Các TCty nhà nước “giữ vai trò chủ đạo và chi phối
trong nền kinh tế quốc dân” là một chủ trương lớn của Nhà nước
Con người làm ăn từ thuở nào đều có tham vọng thâu tóm vì ai cũng nghĩ là muốn mạnh thêm thì phải to hơn, để có độ chủ động cao hơn, có nhiều quyền, thế và lực hơn. Đây là một tư tưởng phổ biến, vì tính dễ thuyết phục của nó. Nó cũng thỏa mãn cái “ngông” trong tâm lý con người. Nhưng sự tương quan giữa tầm vóc và sức mạnh có một vế khác: đó là mạnh thì có thể phải lớn, nhưng lớn chưa hẳn đã mạnh. Lớn mà không mạnh thì dễ có nguy cơ đột quỵ. Như vậy, vấn đề ở đây là phải lớn như thế nào để mạnh, chứ không phải chỉ làm sao cho lớn.
“Tập đoàn Kinh tế” làm được gì, cho ai?
Mô hình Tập đoàn Kinh tế, chủ yếu là những TCty nhà nước, phổ biến ở Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù đã qua nhiều nỗ lực để cải tổ hệ thống quản trị và các khung pháp lý cần thiết (từ luật DN năm 2000, rồi 2003, rồi mới đây cuối năm 2009), thời gian đã cho thấy các tập đoàn vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc vận hành có hiệu quả; các TCty nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định; còn nhiều biểu hiện rõ nét là Nhà nước vẫn chưa thật sự quản lý được tương đối hiệu quả đồng vốn đầu tư trong vai trò đại diện chủ sở hữu vốn của dân.
Các TCty nhà nước “giữ vai trò chủ đạo và chi phối trong nền kinh tế quốc dân” là một chủ trương lớn của Nhà nước, nhưng vấn đề ở đây là ai có trách nhiệm quản lý đồng vốn đầu tư và có quản được không? Hiện nay vẫn chưa có quy định báo cáo công khai kết quả kinh doanh của các TCty nhà nước. Các TCty này chỉ có trách nhiệm báo cáo lên Chính phủ, nhưng ai đọc, giám sát, có trách nhiệm xử lý khi có vấn đề thì không rõ, vì vậy các sai phạm sẽ khó được phát hiện kịp thời để sửa sai. Luật Kiểm toán năm 2011 đã quy định các DNNN nói chung cũng sẽ phải chịu kiểm toán. Tuy nhiên quy định này vẫn chưa ở gỡ bỏ được hoàn toàn “nút thắt” giám sát trách nhiệm, chất lượng, kết quả hoạt động của các TCty, Tập đoàn Kinh tế. Sự chậm trễ cho triển khai và công khai kết quả kiểm toán của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước đối với các DN này lên tới vài ba năm so với thời điểm hiện hành cũng cho thấy trách nhiệm giám sát kịp thời, quản lí đồng vốn đầu tư kịp thời đối với các “quả đấm thép” kinh tế vẫn còn buông lỏng.
Nhà nước ở đâu cũng có những giới hạn nhất định và không thể giám sát toàn diện, nếu hệ thống tổ chức không có khả năng tự kiểm soát và có tính minh bạch cao để ngăn ngừa sai phạm, và nếu sai phạm thì sẽ bị xã hội phát hiện sớm để có áp lực sửa sai. Nhà nước có trách nhiệm đặt chủ trương, định hướng phát triển và ngay cả quyết định phương thức triển khai.
Nhưng vì đồng vốn là sở hữu của toàn dân, Nhà nước chỉ đại diện dân sử dụng đồng vốn đó, cho nên phải tạo mọi điều kiện cần thiết để người dân có quyền và trách nhiệm giám sát việc sử dụng vốn qua các Tập đoàn Kinh tế nhà nước. Đây là điều kiện cơ bản nhất trong kinh doanh: chủ sở hữu vốn phải biết được ai đang sử dụng đồng vốn của mình, để làm gì, cho mục đích gì, có hiệu quả không?
Kỳ vọng được gì từ các tập đoàn kinh tế
Trở lại vai trò của nhà nước trong việc xây dựng các TĐKT. Các tập đoàn kinh tế ở Nhật và Hàn Quốc đều huy động vốn (phần lớn) trực tiếp từ dân, do tư nhân điều hành, có trách nhiệm báo cáo rạch ròi với cổ đông và nhà nước. Với tinh thần trách nhiệm cao (đồng tiền liền khúc ruột) và từ đó khả năng quản lý tốt, các Tập đoàn Kinh tế này đã có những thành tựu vượt bậc trong mấy thập niên qua.
Tuy nhiên, vì có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhà nước (nhất trí về chủ trương và đường lối phát triển, nhận ưu đãi về mặt thông tin thị trường và tín dụng từ nhà nước), nên mô hình này đã có những mầm mống rủi ro lớn, chứa đựng tính độc quyền, bè phái, tham nhũng.
Từ hai thập niên nay, các Tập đoàn Kinh tế Nhật đã gặp phải nhiều khó khăn vì kinh doanh quá dàn trải, thiếu tính linh hoạt, tỷ suất lợi nhuận thấp (thường dưới 1% trên doanh thu) cho nên khó tồn tại trong tình huống kinh tế gặp khó khăn. Rủi ro lớn nhất là các TĐKT ở hai nước này tập trung quá nhiều quyền và lợi vào một thiểu số DN cho nên khi gặp khó khăn, bị giải thể (như trường hợp tập đoàn Daewoo của Hàn Quốc) sẽ có ảnh hưởng lớn đến xã hội – nhiều lao động bị thất nghiệp, nợ xấu quá lớn, hệ thống tài chính bị quá tải khó điều chỉnh kịp thời gây ảnh hưởng dây chuyền.
Trong khi đó, Đài Loan có cùng một xuất phát điểm sau Thế chiến thứ hai như Nhật và Hàn Quốc và cũng đã trở thành một con rồng châu Á chỉ sau hai, ba thập niên. Tuy nhiên, chiến lược phát triển của Đài Loan dựa vào hai nhân tố: sự chủ động của thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ, với rất ít hỗ trợ của chính quyền; Giới hạn các ngành nghề lĩnh vực then chốt cần chính quyền tham gia. Trong những năm thập niên 1950, các Cty thuộc chính quyền đóng góp trên 75% GDP. Nhưng vì chính sách hỗ trợ sự phát triển các DN vừa và nhỏ, đến thập niên 1980 thì thành phần kinh tế tư nhân chiếm hơn 75% GDP. Đến nay thì rõ ràng là Đài Loan đã thành công hơn với một nền kinh tế phát triển tốt, bền vững, công bằng hơn cả Nhật Bản và Hàn Quốc.
Với kinh nghiệm của các nền kinh tế đã đi trước và thực tế hiện tại của kinh tế nước ta thì có lẽ khái niệm Tập đoàn Kinh tế cần được nhìn dưới một góc độ mở và linh hoạt hơn:
Thứ nhất, không nhất thiết phải là một định chế có một tầm vóc nhất định, mà cái chính là nó làm được gì, đóng góp gì được cho nền kinh tế; như vậy hãy để thị trường quyết định ai nên lớn và mạnh như thế nào, có lợi ích cho ai.
Cần nhìn lại để hiểu rõ hơn ý nghĩa thật sự của tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, một sự kết nối hợp lý, tự nguyện có giá trị hỗ tương giữa các DN khác nhau – quốc doanh lẫn tư doanh – và cũng không nhất thiết phải là “mẹ-con”; nhiều con mà nuôi dạy không tốt, quản lý không tốt cũng thành mối họa, “bỏ thì thương, vương thì tội”. Sự kết nối này sẽ giúp các Cty thành viên phát huy thế mạnh của mình, sử dụng được thế mạnh của Cty bạn mà không cần nhiều ràng buộc có thể trở thành gánh nặng trong bước đường phát triển.
Thứ ba, như vậy nên nhìn Tập đoàn Kinh tế là một hiện tượng phát triển tự nhiên từ nhu cầu thị trường và khả năng phát triển của mỗi DN mà không cần phải có một cơ chế áp đặt, ưu đãi, ngoại trừ một số điều kiện pháp lý cơ bản để tránh sự độc quyền, thao túng thị trường.
Tuy nhiên, bất cứ một mô hình kinh tế nào cũng chỉ có cơ hội phát triển tốt trong một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, lành mạnh. Doanh nhân Việt phải có cơ hội tập huấn trên một sân nhà có chuẩn quốc tế thì mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới thành công. Khả năng để kinh tế Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao “có chất lượng” trên 10% là hoàn toàn trong tầm tay với thế hệ con người Việt Nam đang tràn đầy sinh lực, năng động, khát khao vượt khó, nếu chúng ta cùng nhau nỗ lực xây dựng một môi trường kinh doanh xứng đáng hơn với tiềm năng phát triển lịch sử của đất nước.
Theo dddn
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông