Kiến thức Chiến lược Mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam: 3 thách thức và...

Mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam: 3 thách thức và 4 đề xuất

109
Sáng nay (4/6/2014), Báo Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức Tọa đàm trực tuyến “Mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam: Cơ hội và thách thức” từ 9h00-11h30 tại hai đầu cầu Hà Nội và TP.HCM.
Phần mềm kế toán MISA SME – 27 năm số 1 Việt Nam
Ảnh minh họa

Tới tham dự buổi tọa đàm tại đầu cầu Hà Nội có ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương); Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam; Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội; Ông Nguyễn Tiến Vượng – Phó Tổng Giám đốc thường trực – Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro); Ông Nguyễn Trọng Tuấn – Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bán lẻ và Quản lý Bất động sản Đại Dương (gọi tắt là Ocean Retail), đơn vị quản lý và vận hành chuỗi siêu thị Ocean Mart.
Tại đầu cầu TP HCM có ông Nguyễn Quốc Bảo – Chủ tịch Hội đồng Quản trị DT 24, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP HCM; Ông Trần Nhật Linh – Giám đốc kênh bán hàng phi truyền thống Công ty Cổ phần Thế giới Di động. 
Tại buổi tọa đàm, đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, các doanh nghiệp sẽ nhận định về thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam trước giờ mở cửa hoàn toàn (11/1/2015) theo cam kết gia nhập WTO; Phân tích và dự báo kịch bản cho thị trường bán lẻ Việt Nam khi mở cửa; Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp; Dự báo về tương lai của thị trường bán lẻ Việt Nam…
– Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, bắt đầu từ ngày 11/1/2015, các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn tại Việt Nam thay vì mức tối đa 50% như hiện nay. Theo ông/bà, sự kiện này sẽ tác động như thế nào đến thị trường bán lẻ Việt Nam nói riêng và sự phát triển kinh tế nói chung?
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Đầu tiên, tôi xin đính chính lại thời gian các DN FDI được đầu tư 100% vốn nước ngoài. Ở đây rất nhiều báo chí có sự nhầm lẫn. Thời điểm được phép 100% tham gia từ 1/1/2009, sau đó từ cơ sở bán lẻ thứ 2, chúng ta phải xem xét về vấn đề ENT.
Như chúng ta đã biết từ tháng 1/2007, Việt Nam đã gia nhập WTO. Kể từ đó thị trường bán lẻ của Việt Nam đã phát triển và đồng hành cùng các DN FDI. Trước đó, Việt Nam cũng cho phép một số tập đoàn như BigC (Pháp), Metro (Đức), đã đầu tư một chuỗi bán buôn, bán lẻ. Sau đó, chúng ta gia nhập WTO, một số các tập đoàn bán lẻ của nước ngoài đã tham gia rất nhiều như Lotte, Parkson, A-One và một số tập đoàn khác. Cho đến nay, tập đoàn Wal-Mart của Mỹ đã làm việc với Bộ Công Thương để tìm hiểu về thị trường Việt Nam. Theo tôi, năm 2015 các tập đoàn nước ngoài sẽ tiếp tục vào Việt Nam vì hiện nay Việt Nam là thị trường tiềm năng. Theo thống kê của chúng tôi, kinh doanh của thị trường bán lẻ hiện đại hiện dao động trên 20%, chợ truyền thống trên dưới 80%.
Từ khi tham gia WTO, các nhà bán lẻ Việt Nam cũng phát triển và đồng hành với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Khi bắt đầu tham gia, mô hình bán lẻ hiện đại chiếm 20%. Hiện tại, đã tăng trên 20%. Ngoài ra, các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo thống kê đến thời điểm hiện tại mới khoảng 6-7%. Tuy nhiên, mỗi đơn vị tập đoàn nước ngoài lại có mảng kinh doanh hiện đại nhưng doanh thu rất lớn, tương đương mấy chục siêu thị, doanh nghiệp của Việt Nam.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Về phía Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, chúng tôi nhận định thị trường bán lẻ cho đến giờ phút này mặc dù đã bị ra khỏi 30 thị trường mới nổi hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhưng Việt Nam vẫn là thị trường bán lẻ hấp dẫn nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn có bước phát triển đáng khích lệ, tăng trưởng xấp xỉ khoảng 6%. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường bán lẻ Việt Nam hấp dẫn do sự phát triển về mạng lưới và hiệu quả của mảng kinh doanh. Bên cạnh đó hành lang pháp lý và cam kết gia nhập WTO Việt Nam được thực hiện rất nghiêm túc, thậm chí còn đi trước những cam kết đó.
Tôi cũng xin đính chính, chúng ta đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ vào năm 2009 nhưng không hiểu tại sao lại có sự nhầm lẫn ở trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các nhà bán lẻ Việt Nam đã đối mặt với những thách thức đó từ năm 2009 đến giờ. Với việc mở cửa đúng với xu thế hội nhập và thị trường sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ông Nguyễn Trọng Tuấn – Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bán lẻ và Quản lý Bất động sản Đại Dương: Thực tế, năm 2009, các nhà bán lẻ nước ngoài đã tận dụng cơ hội để mở rộng chuỗi cửa hàng của họ. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam nhận thấy đây cũng là thời cơ tốt do đó từ 2009 dến nay, các doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn đầu tư, thậm chí họ đã “vùng dậy”. Thị trường xuất hiện nhiều thương hiệu Việt, tiêu biểu như Ocean Mart, Hiway. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ Việt Nam đã đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhanh nhậy hơn trong việc chuyển giao công nghệ trong ngành bán lẻ, nhân công được sử dụng chuyên nghiệp hơn. Do vậy việc các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng đầu tư ở Việt Nam không phải là nguy cơ mà là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đang nắm bắt và mở rộng thị trường.
Ông Nguyễn Quốc Bảo – Chủ tịch Hội đồng Quản trị DT 24, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP HCM: Tôi thấy rằng việc gia nhập WTO là một lộ trình tất yếu và chúng ta phải chuẩn bị trước rồi chứ không phải bây giờ mới chuẩn bị. Để thu hút FDI, gia tăng nguồn lực và tạo sự cạnh tranh công bằng cho trong nước, tôi nghĩ việc mở cửa cũng như chuẩn bị là cần thiết. Nhưng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thì chúng ta phải có chính sách, phải có một số điều chỉnh đồng thời vẫn phải đảm bảo cạnh tranh công bằng. Cũng có ý kiến cho rằng chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị mua, bị thâu tóm của các doanh nghiệp nước ngoài và chuyển thành Cty/ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 
Tôi cho rằng thực tế đôi khi chúng ta đang nhìn doanh nghiệp Việt Nam là của Việt Nam nhưng thực tế nhiều khi đã có tới 90% vốn là sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài mà chúng ta cũng chưa có cơ chế kiểm soát hết được. Do đó, để chuẩn bị tốt nhất cho thời điểm này, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động để bán cho doanh nghiệp nước ngoài, bán lúc nào, giá nào và lúc nào có thể mua lại. Điều đó vừa phụ thuộc vào cơ chế chính sách của Nhà nước, đặc biệt là các dự báo chuẩn xác về tăng trưởng của kinh tế, của thị trường và cũng phụ thuộc vào tài năng của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần hòa nhập với đại dương xanh chứ không phải e ngại các cột mốc hội nhập sâu của WTO.
– Ông đánh giá thế nào về việc “đổ bộ” của các Tập đoàn bán lẻ nổi tiếng trên thế giới vào thị trường bán lẻ của Việt Nam? Thậm chí, không ít ý kiến cho rằng, hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đã “lỡ nhịp” trong cuộc đua với các nhà đầu tư nước ngoài, ông suy nghĩ thế 
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Với tư cách người mở siêu thị đầu tiên ở Hà Nội, tôi thấy, hiện nay ở Hà Nội sau khi sáp nhập Hà Nội thì thị trường bán lẻ hiện tại chỉ còn chiếm 13% (trước đây là 20%). Việc đề cập cạnh tranh của doanh nghiệp nội với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài không phải bây giờ mới đề cập đến, mà được nói nhiều. Nhưng quan trọng là việc tổ chức thực hiện như thế nào?
Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế của khu vực và thế giới. Có rất nhiều cơ hội để bán lẻ Việt Nam nắm được thời cơ để vươn xa, phát triển bền vững nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và phục vụ tiêu dùng xã hội. Tuy nhiên đánh giá một cách khách quan về khả năng phát triển sắp tới của nền công nghiệp bán lẻ Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua.
Thách thức lớn nhất mọi người đều cho rằng bán lẻ Việt Nam phải vượt qua chính mình: Điều đầu tiên là chiến lược phát triển của ngành bán lẻ nước ta chưa được xây dựng ở ba cấp: Nhà nước, Ngành và Doanh nghiệp.
Quy mô kinh doanh với vốn nhỏ, hạ tầng phục vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao, văn hóa phục vụ còn nhiều điều cần khắc phục, quản trị doanh nghiệp chưa theo kịp với tình hình, đặc biệt là tính liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp bán lẻ với nhau, giữa bán lẻ với sản xuất còn chưa cao.
Ít có những tổ chức bán lẻ có những điểm cá biệt, nổi trội, đổi mới kinh doanh còn chậm chạp. Tình hình trên cho thấy thách thức của bán lẻ Việt Nam hiện tại là rất lớn.
Thách thức thứ hai cần đề cập đến đó là bán lẻ dựa trên một nguồn cung hàng hóa được sản xuất với quy mô nhỏ, năng suất thấp, chất lượng không ổn định, công tác an toàn vệ sinh thực phẩm còn thấp kém, chưa tiêu chuẩn hóa một cách đồng bộ, chi phí sản xuất cao, giá cả chưa cạnh tranh ngay ở thị trường nội địa.
Đây là đầu vào của ngành công nghiệp bán lẻ rõ ràng chúng ta phải tổ chức lại sản xuất một cách hợp lý, hiệu quả. Thời gian này tuy quá chậm nhưng các nhà sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ phải “ngồi lại với nhau” để xây dựng chuỗi sản xuất phân phối hiệu quả, chủ yếu là đi thẳng từ sản xuất đến bán lẻ, cắt bớt ngay các khâu trung gian bất hợp lý đẩy giá lên.
Kết quả cuối cùng ở khâu bán lẻ thì lợi nhuận phải được phân chia một cách hợp lý, trước hết là lợi nhuận hợp lý cho người sản xuất, đó là cái gốc của sự phát triển, đây là con đường duy nhất để phát triển ngành công nghiệp bán lẻ Việt Nam một cách bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ tiêu dùng xã hội, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cả về giá cả và chất lượng hàng hóa bán ra thị trường.
Thách thức thứ ba cũng rất quan trọng đó là cần phải có một quyết tâm chính trị cao từ lãnh đạo, nhà nước, bộ ngành đến các doanh nghiệp và sự ủng hộ của người tiêu dùng. Thách thức thứ ba còn ở chỗ làm tốt công tác tổ chức thực hiện các đề án có liên quan đến phát triển thị trường trong nước đã được công bố. Chúng ta thường hay yếu ở khâu tổ chức thực hiện, do vậy các cơ chế chính sách giúp cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phát triển cần phải có những điều kiện đầy đủ để thực hiện.
Có doanh nghiệp bán lẻ trong nước nói với tôi rằng chỉ cần công bằng chưa cần ưu tiên thì doanh nghiệp bán lẻ cũng đã khác rồi. Như vậy, sự minh bạch, công bằng được các doanh nghiệp nội đặc biệt quan tâm.
Theo tôi, quy hoạch phát triển bán lẻ phải được xây dựng một cách khoa học và thực hiện đến nơi đến chốn, chúng ta đã làm được khá nhiều việc nhưng mà chúng ta cũng còn rất nhiều việc phải làm.
Ông Nguyễn Tiến Vượng – Phó Tổng Giám đốc thường trực – Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro): Với câu hỏi lỡ cơ hội chưa thì theo tôi là chưa phải và theo tôi còn nhiều cơ hội cho nhiều DN VN. WTO mở cửa từ 2009 nhưng vẫn có nhiều cách lách WTO để họ vẫn có thể mở được cửa hàng. Đối với DN VN thì nguồn lực rất là khó khăn, đối với DN nước ngoài thì họ còn đang phải phân tích xem họ mở cửa có thăng lợi hay không. Đối với DNVN đã nghiên cứu để làm thế nào phát triển được hệ thống nhưng với lãi suất ngân hàng thì không thể cạnh tranh được đối với nước ngoài. Đối với đất đai chúng tôi xin rất là khó khăn nhưng đối với các DN nước ngoài thì lại rất dễ dàng.
Đối với năng lực như vậy thì việc phát triển hệ thống là rất khó khăn. Từ khi mở thêm tỉnh Hà Tây chúng tôi cũng mong muốn được mở rộng lắm nhưng chúng tôi vẫn còn bị tắc ở khâu thủ tục xin dự án đầu tư cho thương mại. Chúng tôi rất cần sự bình đẳng để các doanh nghiệp nhỏ bé còn có cơ hội để phát triển bởi thị trường còn rất là rộng lớn. Các DN VN vẫn còn có cơ hội nếu các DN tìm được sự kinh doanh phù hợp.
Nhà nước cần có chính sách chặt chẽ đối với DN nước ngoài để đảm bảo sự cạnh tranh VD như vừa rồi Hiệp hội Bán lẻ VN vừa có văn bản kiến nghị lên Bộ Công thương, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư về việc Metro kinh doanh không đúng với giấy phép và không nộp thuế cho nhà nước.
– Hiện nay chúng ta vẫn còn một số bất cập trong cơ chế quản lý nhà nước, không thể áp dụng các cơ chế đối với khu vực trong nước và khu vực nước ngoài trong việc phát triển thị trường bán lẻ, hiện nay cơ hội của thị trường phân phối còn rất lớn và chúng ta có thể có nhiều phương thức phát triển khác nhau. Vậy ông chia sẻ thêm suy nghĩ của ông trong việc phát triển thị trường theo phương thức của TGDĐ? 
Ông Trần Nhật Linh – Giám đốc kênh bán hàng phi truyền thống Công ty Cổ phần Thế giới Di động: Việc nhà bán lẻ nước ngoài vào VN là điều tất yếu. Đây là cơ hội để mình thay đổi và thành công. Riêng đối với TGDĐ thì chúng tôi đánh giá, cơ hội lúc nào cũng có, quan trọng là phải có chiến lược, bước đi phù hợp trong giai đoạn này. Như các anh, chị đã thấy BigC hay Metro đang đi theo mô hình đại siêu thị, còn TGDĐ đi sâu vào chuyên ngành, tức là phát triển những cửa hàng nhỏ, hiện tại chúng tôi đã có hệ thống cửa hàng tại khắp 63 tỉnh, thành.
Nếu xét về lĩnh vực sản phẩm viễn thông thì các đại siêu thị chắn chắn họ không thể có doanh thu và thị phần lớn hơn TGDĐ, đó cũng là hướng đi phù hợp mang lại sự thành công của TGDĐ.
Hai là, TGDĐ còn tận dụng mô hình bán lẻ hiện đại, như là thương mại điện tử. Đầu tư thương mại điện tử của TGDĐ từ hồi năm 2004 cho tới giờ đã gặt hái được những thành công nhất định. Ví dụ về doanh thu tuyệt đối thì trong quá I/2014, mỗi tháng TGDĐ có doanh thu lên đến 70 tỷ đồng. Đây cũng là một cơ hội để tăng doanh thu và cũng là một phương thức bán hàng mới.
Nhưng tựu chung lại, cơ hội này có được khi DN mình lấy khách hàng là trọng tâm và lúc đó mới biết được mình phải thay đổi những gì để chớp lấy cơ hội đó. Đó là phương thức thành công của TGDĐ.
– Nhiều ý kiến cho rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang được hưởng khá nhiều các chính sách ưu đãi của Việc Nam nên có nhiều lợi thế để phát triển, trong khi đó, bản thân các doanh nghiệp trong nước hầu như lại không được hỗ trợ hay tạo điều kiện gì. Ông suy nghĩ thế nào về ý kiến này?
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Trong thời gian qua, Vụ Thị trường trong nước – Bộ Công thương đã thường thường xuyên bàn bạc với Hiệp hội bán lẻ VN để tìm ra cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho các DN ngày càng phát triển trong thời gian tới. Mục đích, để làm sao khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào VN, các DN trong nước có thể đồng hành phát triển.
Tháng 4/2013, chúng tôi cũng ban hành Thông tư 08 về các DN có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào VN. Thông tư quy định cụ thể đối với các DN FDI được đầu tư 100% vốn nước ngoài tại VN. Từ cơ sở bán lẻ thứ 2, phải được xem xét thông qua Hội đồng thẩm định ENT tại các địa phương.
Các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm thành lập Hội đồng thẩm định ENT để thẩm định các DN đầu tư tại địa bàn. Thời gian, Hội đồng thẩm định đã đi vào hoạt động rất tốt. Sau khi có kết quả thẩm định, Hội đồng sẽ gửi lên Bộ Công thương xem xét, ra công văn chấp thuận.
Với các ý kiến các DN chia sẻ vừa rồi, chúng tôi cũng rất trăn trở. Thực tế, Hiệp hội bán lẻ Việt Nam và Bộ Công thương hàng năm vẫn tổ chức các cuộc họp thường niên giữa các đơn vị có liên quan. Đầu tháng 6 này, Hiệp hội bán lẻ VN và một số DN bán lẻ lớn cũng sẽ có cuộc họp thường niên với Bộ Công Thương. Tại cuộc họp này, chúng tôi sẽ tiếp tục chia sẻ và tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, một số vấn đề như mặt bằng, vay vốn đã được tháo gỡ tốt. Lãi suất ngày càng giảm. Trong năm nay, thống đốc NHNN cam kết có thể giảm từ 1-2% lãi suất cho vay. Theo tôi, lãi suất đến thời điểm này đã đủ đảm bảo cho các DN kinh doanh có lãi.
Về mặt bằng, ngay từ cuộc họp tháng 6/2013 với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, các DN cũng có nhiều ý kiến, nhưng đến thời điểm này vẫn chưa giải quyết được. Chính vì vậy, hiện tại, các DN trong nước vẫn phải chủ động và phải thay đổi mình.
Theo tôi, từ khi gia nhập WTO đến nay, các DN trong nước đã tự chủ động đổi mới mình. Thông qua các DN FDI, chúng ta đã thay đổi được tư duy kinh doanh, người trực tiếp bán hàng cũng đã thay đổi rất nhiều. Chính vì đó mà chúng ta vẫn tồn tại và phát triển đến thời điểm này.
Một vấn đề đáng chú ý hiện nay chính là việc các DN nước ngoài khi vào VN đã tận dụng nguồn nhân lực của các DN kinh doanh thương mại, chính vì vậy, các DN nội sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là các nhân lực chất lượng cao.
Tôi nghĩ, trong thời gian tới, các DN trong nước cần phải xây dựng chiến lược nhân sự tốt để đảm bảo kinh doanh. 
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Các năm gần đây nhà nước đã nỗ lực để cải thiện hệ thống chính sách và pháp luật. Chúng tôi vui mừng và đánh giá cao việc mới đây Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014-2020, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 tăng thị phần hàng Việt tại các kênh phân phối lên hơn 80%.
Đây có thể xem là cơ hội cho các doanh nghiệp (DN) trong nước nâng cao vị thế của mình tại thị trường nội địa. Đề án có tác động rất lớn đến các DN bán lẻ và sản xuất kinh doanh nói chung. Chúng tôi hy vọng Đề án được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống.
Về phía Hiệp hội, chúng tôi rất chú trọng nhiệm vụ và coi đây là nhiệm vụ hàng đầu khi thay mặt các DN tham gia phản biện chính sách và xây dựng các văn bản pháp luật có liên quan. Dự định trong tháng 6, Hiệp hội có các đề xuất cụ thể, cập nhật tình hình của các DN, trong đó tập trung vào các điểm chính:
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược cho ngành công nghiệp bán lẻ Việt Nam, chúng tôi cho rằng chúng ta có nhiều quy hoạch, chương trình, đề án nhưng Chiến lược ngành phải thấu đáo, cập nhật thông tin và phân tích sâu và các giải pháp thiết thực… thì chưa có. Do vậy chúng tôi kiến nghị cần xây dựng chiến lược ngành để phục vụ nền kinh tế của đất nước.
Thứ hai: Chúng tôi cũng kiến nghị hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Bởi hệ thống này đang rườm rà, chồng chéo, khó thực thi.
Thứ ba: Hiệp hội mong muốn nhà nước xem xét các luật thuế bởi nó tác động mạnh mẽ đến các Doanh nghiệp nói chung và DN phân phối bán lẻ nói riêng. Cụ thể, Hiệp hội kiến nghị giảm thuế VAT xuống 5% (hiện nay đang 10%) cho các DN, nếu không giảm được hết thì nên ưu tiên cho các DN phân phối bán lẻ. Nếu kiến nghị được thông qua sẽ giảm giá các mặt hàng và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Sẽ có ý kiến cho rằng như thế thì ngân sách nhà nước ko đảm bảo? Nhưng ngược lại sức mua tăng lên và việc sản xuất đảm bảo.
Thứ tư: Hiệp hội mong muốn nhà nước sẽ có hỗ trợ xây dựng 15 – 20 DN bán lẻ hàng đầu VN.
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Tôi đồng tình với kiến nghị từ phía Hiệp hội bán lẻ. Vấn đề VAT đã kiến nghị rất nhiều lần. Chỉ ví dụ 1 kg thịt vào siêu thị bán với giá 110 nghìn đồng/kg cộng thêm 10 nghìn đồng thuế VAT nữa và còn rất nhiều mặt hàng khác nữa. Theo tôi, nếu chưa giảm được toàn bộ 10% VAT thì giảm một nửa còn 5%. Chỉ cần giảm được một nửa thì doanh số của các siêu thị sẽ tốt hơn, sức cầu tiêu dùng lớn hơn.
Vấn đề tổ chức thực hiện cũng cần phải tổ chức lại. Tôi lấy ví dụ một quả trứng được bán ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có giá bán 400 đồng trong khi ở siêu thị là 40 nghìn/kg, tức là hơn 2.000 đồng/quả. Hay như 1kg đường của Hoàng Anh Gia Lai sản xuất ra ở Lào bằng công nghệ tiên tiến chỉ có giá 4.000 đồng/kg, trong khi đó đường sản xuất ở các nhà máy tại ở Việt Nam lên tới mười mấy nghìn kg. Như vậy có thể thấy, người tiêu dùng đang bị ‘móc túi’ hàng nghìn tỷ đồng từ việc tổ chức chưa tốt trong việc phát triển thị trường bán lẻ trong nước.
Do đó, các nhà sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ phải “ngồi lại với nhau” để xây dựng chuỗi sản xuất phân phối hiệu quả, chủ yếu là đi thẳng từ sản xuất đến bán lẻ, cắt bớt ngay các khâu trung gian bất hợp lý đẩy giá lên. Kết quả cuối cùng ở khâu bán lẻ thì lợi nhuận phải được phân chia một cách hợp lý, trước hết là lợi nhuận hợp lý cho người sản xuất, đó là cái gốc của sự phát triển, đây là con đường duy nhất để phát triển ngành công nghiệp bán lẻ Việt Nam một cách bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ tiêu dùng xã hội, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về giá cả và chất lượng hàng hóa bán ra thị trường.
Thêm nữa, vấn đề quy hoạch ở nhiều địa phương cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Đâu đó vẫn thấy được lợi ích cục bộ từ các địa phương. Tôi tha thiết cần nâng cao tính minh bạch, bình đẳng trong kinh doanh.
– Nhiều DN bán lẻ Việt Nam cho rằng, chính sách phân cấp đầu tư trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và quy hoạch ngành kém là nguyên nhân khiến các DN bán lẻ Việt Nam yếu thế trước đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Quan điểm của ông (bà) về vấn đề này như thế nào?
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Về tổ chức sản xuất. Trong thời gian qua có lúc chúng ta đã tổ chức được, song có những lúc chúng ta lại buông lỏng, nên mới có việc, hàng hóa khi vào siêu thị, qua nhiều kênh trung gian phân phối đã bị đội giá rất cao.
Ở nước ngoài, họ đưa hàng hóa từ nhà sản xuất vào siêu thị ngay, không qua trung gian phân phối nên giá cả rất ổn định, phù hợp khi đưa vào siêu thị. Còn tại Việt Nam, vấn đề này cần phải tổ chức lại. Đây cũng là nhiệm vụ của chúng tôi và trong thời gian tới, chúng tôi sẽ nghiên cứu về vấn đề này.
Như tôi đã nói, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 08 quy định cụ thể các vấn đề đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài. Quy định này rất tốt đối với các DN. Các DN FDI nằm trong phạm vi quy định của thông tin phải phù hợp với quy hoạch, phải đảm bảo vị trí kinh doanh bán lẻ cách nhau thế nào. Điều đó sẽ có lợi cho các DN VN chứ hoàn toàn không gây ảnh hưởng gì tới các DN trong nước.
Về câu hỏi, liệu thị truờng bán lẻ Việt Nam tới năm 2020 có bị các doanh nghiệp ngoại thâu tóm hết không? Tôi xin khẳng định, đến 2020, thị trường bán lẻ VN không thể thuộc về các DN FDI được bởi trong quá trình phát triển chúng ta cũng đang lớn dần lên. Tư duy kinh doanh của chúng ta cũng đã mới hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại. Nguồn lực tài chính cũng mạnh hơn. Tuy nhiên, tôi cũng cho rằng, chúng ta vẫn cần phải học tập, cố gắng hơn để tự đổi mới mình. Có như vậy, các DN trong nước mới có thể vươn lên được.
– Nếu thực sự những nguyên nhân này chưa đủ, vậy đâu là nguyên nhân khiến doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam bị mất thị phần. Có phải do sự liên kết của các doanh nghiệp trong nước còn lỏng hay doanh nghiệp chưa biết tận dụng những cơ hội hay chính sách của chúng ta chưa thực sự tạo cơ chế cho các doanh nghiệp trong nước?
Ông Nguyễn Tiến Vượng – Phó Tổng Giám đốc thường trực – Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro): VDA Thành lập với mục đích phát triển hệ thống hạ tầng thương mại sau đó chuyển giao lại cho các đơn vị trực tiếp kinh doanh bán lẻ vì thực tế từng doanh nghiệp nhỏ bán lẻ không đủ năng lực để phát triển được hạ tầng thương mại. Với mục tiêu đó trong thời gian từ khi thành lập VDA cũng đã đầu tư xây dựng một số dự án hạ tầng thương mại như là Trung tâm thương mại Đà Nẵng, tổng kho phân phối tại tỉnh Hậu Giang… và đã chuyển giao cho các đơn vị thành viên kinh doanh. Tuy nhiên hiện nay chính sách về đất đai của Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn VDA đã có chủ trương chuyển hướng sang các hoạt động mới.
– Thách thức nhân sự với các doanh nghiệp bán lẻ như thế nào?
Ông Nguyễn Quốc Bảo – Chủ tịch Hội đồng Quản trị DT 24, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP HCM: Như chúng ta đã biết Wal-Mart có số lượng 2 triệu nhân viên trên toàn cầu, chi phí rất lớn, trong đó cơ bản là chi phí lương cho nhân viên. Nếu chi phí lương thấp thì không giữ được nhân viên mà doanh nghiệp muốn lớn mạnh, mở rộng thì phải đầu tư nhân lực, có nhân viên. Nhưng nếu đầu tư nhân lực như vậy thì chi phí lại tăng cao, doanh nghiệp khó có thể nâng cao sức cạnh tranh. Đây là thách thức của doanh nghiệp và nếu giải được bài toán này, doanh nghiệp bán lẻ sẽ sở hữu một chìa khóa cạnh tranh.
Lợi thế của doanh nghiệp trong nước là kinh doanh ngay trên sân nhà nên sẽ có điều kiện thu hút nhân lực tốt hơn doanh nghiệp FDI. Vậy thì nếu phát huy được lợi thế nhân lực, doanh nghiệp cũng có thể có cơ hội cạnh tranh tốt hơn với doanh nghiệp FDI. Ngoài ra chúng ta đang có những doanh nghiệp mà chúng ta biết rõ không bị các quỹ đầu tư trà trộn và sở hữu quá tỷ lệ sở hữu quy định dưới cái vỏ doanh nghiệp Việt Nam, như Co-op Mart, Hapro…,
Việc giữ gìn được đúng thực chất và giá trị thương hiệu của doanh nghiệp sẽ là cơ hội để những doanh nghiệp bán lẻ lớn cạnh tranh ngang ngửa với doanh nghiệp FDI. 
Ngoài vấn đề nhân lực và thương hiệu, cơ hội của doanh nghiệp ngành bán lẻ trong nước còn phụ thuộc vào cách thức quản trị và kinh doanh. Chẳng hạn, với tư cách nhà phân phối Thành Công Mobile, đang phân phối nhiều sản phẩm/ thương hiệu điện thoại di động, trong đó có thương hiệu made in Việt Nam. Tôi muốn đặt câu hỏi: khi chúng tôi phân phối hàng tới doanh nghiệp bán lẻ trong nước, liệu có sự khác biệt trong thanh toán với doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài? 
Câu trả lời là có. Vì doanh nghiệp nước ngoài có nguồn vốn dồi dào, có cơ chế quản trị kinh doanh tốt, họ sử dụng ERP để quản trị cả chuỗi hệ thống… do đó khả năng thanh toán của họ tốt hơn, đúng hẹn hơn.
Khi họ thanh toán tốt thì giá hàng nhập từ nhà phân phối sẽ thấp và ngược lại khi doanh nghiệp trong nước trễ hẹn thanh toán, tất nhiên giá cả hàng hóa đầu vào sẽ đội lên. Sức cạnh tranh yếu đi. Cải thiện khả năng thanh toán vì vậy cũng là yêu cầu của doanh nghiệp bán lẻ nội.
Cũng ở góc độ nhà phân phối, để chủ động hơn trong việc phân phối tới thị trường bán lẻ, chúng tôi đã đầu tư vào một doanh nghiệp có chiến lược sẽ mở rộng hệ thống bán lẻ trên toàn quốc là dt24.vn. Do tình hình kinh tế còn khó khăn nên dt24.vn hiện tại đang mở rộng kênh phân phối từ từ theo cách “vết dầu loang”.
Chúng tôi cũng chờ đợi các doanh nghiệp bán lẻ trong nước sẽ sớm lên sàn niêm yết, để chúng tôi có cơ hội đầu tư. Như vậy thì cả doanh nghiệp phân phối lẫn bán lẻ đều sẽ có thêm những lợi thế để giảm giá thành hàng hóa ra thị trường, cạnh tranh tốt hơn. Tích hợp theo chiều ngang, đầu tư phân phối tới bán lẻ nhằm đa dạng kênh phân phối và đa dạng sản phẩm theo tôi có lẽ là một chiến lược sẽ cải thiện các rào cản tiếp cận cơ hội phát triển của doanh nghiệp nội trên thị trường bán lẻ.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Nhân lực trong ngành bán lẻ là một trong những điểm yếu của các DN bán lẻ VN. Có thể chia nhân lực gồm 2 nhóm: Nhóm 1: Nhân lực gồm nhân viên trực tiếp bán hàng, kho, kế toán, thu ngân… Nhóm 2 là nguồn nhân lực cấp trung và cao. Cả hai nguồn nhân lực này rất quan trọng nên cần phải đầu tư và có sự bứt phá để phát triển tốt.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nghề thương mại là nghề rất vất vả. Vì vậy, chúng tôi nghĩ nhân lực trong ngành bán lẻ từ nhiều phía phải được xem xét. Trong những năm gần đây được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Bộ Công thương, Hiệp hội đã triển khai một số khoá đào tạo ở cấp trưởng phòng, trưởng ban về quản lý bán hàng, nhân viên… Các lớp học ở HN và TP.HCM bao giờ cũng quá tải. Chứng tỏ sự thu hút và cần thiết của các khoá học này.
Hơn lúc nào hết, các thành viên của Hiệp hội đều hết sức chú trọng đến công tác phát triển nguồn nhân lực bán lẻ. Chúng tôi ý thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực này và cần sự quan tâm hỗ trợ của nhà nước.
Nhân lực trong ngành bán lẻ là một trong những điểm yếu của các DN bán lẻ VN. Có thể chia nhân lực gồm 2 nhóm: Nhóm 1: Nhân lực gồm nhân viên trực tiếp bán hàng, kho, kế toán, thu ngân… Nhóm 2 là nguồn nhân lực cấp trung và cao. Cả hai nguồn nhân lực này rất quan trọng nên cần phải đầu tư và có sự bứt phá để phát triển tốt.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nghề thương mại là nghề rất vất vả. Vì vậy, chúng tôi nghĩ nhân lực trong ngành bán lẻ từ nhiều phía phải được xem xét. Trong những năm gần đây được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Bộ Công thương, Hiệp hội đã triển khai một số khoá đào tạo ở cấp trưởng phòng, trưởng ban về quản lý bán hàng, nhân viên… Các lớp học ở HN và TP.HCM bao giờ cũng quá tải. Chứng tỏ sự thu hút và cần thiết của các khoá học này.
Hơn lúc nào hết, các thành viên của Hiệp hội đều hết sức chú trọng đến công tác phát triển nguồn nhân lực bán lẻ. Chúng tôi ý thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực này và cần sự quan tâm hỗ trợ của nhà nước.
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Tôi hết sức nhất trí với ý kiến của chị Loan. Chúng tôi rất vinh dự cách đây 27 ngày đến Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận bộ sách của Pháp và Bỉ về đào tạo cho các giám đốc bán lẻ. Chúng tôi đã dịch 4 cuốn, đang phối hợp với Bộ để dịch tiếp. 
Hiện tại, chúng tôi đang tham gia giảng dạy, trợ giảng cho 2 trường Đại học là Công nghệ và kinh doanh, Đại học Thương mại. Dự kiến sẽ mở rộng ra các tỉnh, thành khác. Theo tôi, ngoài dạy kiến thức, kỹ thuật bán hàng chúng ta cũng phải đặc biệt quan tâm tới cả văn hóa phục vụ của loại hình dịch vụ này. Vấn đề này còn quan trọng hơn cả tổ chức kỹ thuật thương mại.
Về kinh phí xúc tiến thực hiện, phần chi phí cho đào tạo là rất ngặt nghèo, khó khăn, chỉ có 53 tỷ đồng (năm 2013) chia cho 64 tỉnh, thành. Do đó, tôi đề nghị chi phí này phải được trích từ lợi nhuận trước thuế để chi tiêu lớn hơn, chống ‘bầu sữa’ bao cấp thực hiện hiện nay. Trong đào tạo thì không chỉ riêng hiệp hội tổ chức mà cần phối hợp với trường đại học, dạy nghề để thực hiện tốt hơn. 
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Trong những năm trước, các DN VN thường bị “săn đầu người”, hay nói thẳng là nhân viên nào tốt thường bị lấy đi mất. Tuy nhiên, gần đây tình hình đảo ngược, các chuyên gia cao cấp của BigC, Lotte…đã trở lại làm việc cho VN. Do vậy, tôi nghĩ chúng ta cũng không nên bi quan quá mà cần bảo vệ nguồn nhân lực cho Việt Nam.
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Về bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực cấp cao, trong thời gian qua, Bộ Công thương và Hiệp hội bán lẻ Việt Nam đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho giám đốc doanh nghiệp tại Nhật Bản. Trong 4 năm qua, chúng tôi đã tổ chức được 4 lớp, mỗi lớp có 20 DN tham gia. Trong thời gian tới, chúng tôi cũng tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn này. Hiện, chúng tôi đang làm việc với Bộ Công nghiệp Thương mại và Năng lượng Hàn Quốc để đưa DN sang tập huấn. Chúng tôi sẽ cố gắng để mỗi năm tổ chức được hai lớp, một lớp đi Nhật Bản và một lớp đi Hàn Quốc.
Ông Nguyễn Trọng Tuấn – Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bán lẻ và Quản lý Bất động sản Đại Dương: Về ý kiến của đầu cầu phía Nam, việc nhiều doanh nghiệp chậm trả lương khiến nhiều lao động không muốn chọn các doanh nghiệp trong nước, nhưng thực tế các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng cải thiện, thực hiện tốt về các chính sách thuế, bảo hiểm, đào tạo nguồn nhân lực. Việc lựa chọn doanh nghiệp nước ngoài nằm trong nhận thức trước đây. Do đó, tôi mong muốn các cơ quan ban ngành chức năng quan tâm, có khảo sát về mức độ hài lòng cũng như mong muốn của người lao động tại các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. 
Đối với việc mở rộng đào tạo cho lao động phổ thông và cấp trung , hiện chưa theo theo sát ngành, chưa có kế hoạch bài bản nên cần có chế độ đào tạo chuyên sâu, khen thưởng cho công tác đào tạo. Đây là nhu cầu thiết yếu mà các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang cần. Còn việc các chất xám đang tìm đến nhà bán lẻ Việt Nam thể hiện niềm tin về thị trường bán lẻ của nguồn nhân lực trong nước. Việt Nam là thị trường tiềm năng, tại sao các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào mà chúng ta lại bỏ qua. Không lẽ gì chúng ta lại không thành công trên chính mảnh đất của mình.
Điều đó còn thể hiện tinh thần của chủ trương Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. Chúng tôi nghĩ rằng khi đã thành công với thị trường trong nước thì hệ thống bản lẻ Việt Nam sẽ vượt qua biên giới, tiếp cận thị trường nước ngoài.
– Các ông bà nghĩ sao về việc tạo đầu ra cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước tìm tới các thị trường nước ngoài, phát triển kênh phân phối cho hàng Việt tại thị trường nước ngoài. Bộ Công thương đã có chính sách ra sao, các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đã có chiến lược gì cho sự đầu tư này chưa?
Ông Nguyễn Trọng Tuấn – Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bán lẻ và Quản lý Bất động sản Đại Dương: Ocean Mart đặt mục tiêu sẽ trở thành một trong những nhà bán lẻ hàng đầu của Việt Nam đến năm 2015. Khi đã trở thành nơi mua sắm tin cậy của người tin dùng trong nước và chiếm được thị phần trên thị trường nội địa, chúng tôi cho rằng không có lý do gì để không nghĩ đến việc phát triển hệ thống bán lẻ của Việt Nam ra nước ngoài. Không chỉ có Ocean Mart mà nhiều doanh nghiệp bản lẻ trong nước sẽ vượt qua biên giới, tiếp cận thị trường nước ngoài, mở rộng kênh phân phối, đưa hàng Việt tới người tiêu dùng trên thế giới.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Quan niệm nhà bán lẻ phục vụ các khách hàng nội địa là chủ yếu giờ là tư duy cổ điển. Hiện nay các nhà bán lẻ phải nhìn ra cả thế giới để có nguồn cung tốt nhất cho mình.
Hiệp hội vui mừng cho biết một số thành viên của Hiệp hội đã có mạng lưới bán lẻ và đang nghiên cứu hệ thống bán lẻ của City Group để mở một trung tâm bán lẻ tại Myanmar với rất nhiều hàng Việt. Ngoài ra chúng tôi cũng đang khảo sát thêm một số thị trường khác.
Tôi nghĩ, các doanh nghiệp bán lẻ giờ phải làm tốt, phải phục vụ tốt người tiêu dùng trong nước, phải đứng vững trên thị trường nội địa sau đó mới nghĩ đến việc vươn ra nước ngoài.
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Vấn đề phát triển thị trường bán lẻ ra nước ngoài phải nên hiểu thêm là không chỉ đơn thuần đưa hàng trong nước ra nước ngoài mà còn phải tiến tới đưa hàng nước ngoài về thị trường trong nước để bán. Tuy nhiên, để làm điều này phải làm thương hiệu tốt trong nước đã, tức là các doanh nghiệp trong nước phải chắc chân trên chính thị trường nội địa của mình. 
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Tôi cho rằng, ý kiến của ông Tuấn rất xác đáng. Trước khi đầu tư ra nước ngoài, các DN VN hãy đầu tư trọn vẹn trong nước. Sau khi ổn định, phát triển trong nước, chúng ta hãy nghĩ tới việc đầu tư sang các nước khu vực như Lào, Campuchia. Hiện nay tôi được biết, các DN bán lẻ VN cũng đã đầu tư một số siêu thị tại nước ngoài và đã rất thành công.
– Tuy vậy, các DN bán lẻ Việt Nam không phải không có những đối trọng đủ tầm – Coop mart là một minh chứng. Ở góc độ của các vị, đâu là thế mạnh của nhà bán lẻ này?
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Theo tôi, câu chuyện thành công từ Co.op mart về tổ chức liên kết và sản xuất bán lẻ tốt; giữ được chữ tín với khách hàng; vấn đề xây dựng thương hiệu, xây dựng những con người phục vụ, trách nhiệm với khách hàng, các dịch vụ đi theo rất tốt sẽ là bài học cho nhiều nhà bán lẻ khác.
Co.op Mart đã làm như vậy. Các siêu thị ở Việt Nam cần phải lựa chọn hướng đi có tính cá biệt để làm nổi danh mình, phải luôn đổi mới, tổ chức thực hiện để tốt hơn nữa trong cuộc cạnh tranh này.
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Đây là một mô hình kinh doanh thành công. Doanh thu của Saigon co.op này 1 năm đạt 1 tỷ đô la. Doanh số này cũng chưa bằng Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn: 1 năm trên 2 tỷ đô la. Tuy nhiên, con số này mới chỉ bằng 1 cửa hàng Takashimaya của Nhật Bản. Hiện cửa hàng này đã đầu tư tại Sài Gòn và tới đây sẽ là một đối thủ cạnh tranh lớn của các DN VN. Tôi cho rằng, thời gian tới, các DN bán lẻ VN cần có sự liên kết, học tập để có thể cạnh tranh được với các DN nước ngoài. 
Với tập đoàn Wal-Mart, theo tôi được biết, thời kỳ đầu DN này cũng bị phá sản. Sau đó, họ di chuyển xuống 1 vùng xa địa phương, áp dụng chiến lược giá rẻ. Cụ thể, tất cả các mặt hàng của Wal-Mart đều thấp hơn so với các siêu thị khác nên đã thu hút được tất cả đối tượng khách hàng từ thu nhập thấp đến thu nhập cao. Mô hình này đã rất thành công trên thế giới, nhưng ở Hàn Quốc lại không thành công. Trong thời gian tới, tôi nghĩ, người VN cũng sẽ hướng tới hàng VN rất lớn. Trong sáng nay (4/6), bản tin tài chính đã khảo sát khách hàng và cho thấy khoảng 73% người VN thích dùng hàng VN
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Chúng ta đã thấy uy tín và thương hiệu của Saigon Co.op ở trong nước cũng như quốc tế. Saigon Co.op thường xuyên là DN bán lẻ số 1 VN, nằm trong top 500 DN bán lẻ châu Á – Thái Bình Dương. 
Mới đây, Saigon Co.op cũng công bố ra mắt mô hình kinh doanh mới: Đại siêu thị. Cùng với đối tác NTUC FairPrice- một đơn vị hợp tác xã, nhà bán lẻ hàng đầu Singapore để đầu tư mô hình kinh doanh chuỗi đại siêu thị và cửa hàng đầu tiên mang tên Co.op Xtra plus vừa bán lẻ, vừa phân phối số lượng lớn tại quận Thủ Đức, TP.Hồ Chí Minh. Saigon Co.op dự kiến đến năm 2015, sẽ có 5 đại siêu thị Co.opXtra và Co.opXtraPlus và đến năm 2020, con số này sẽ tăng lên 15 đại siêu thị trong cả nước.
Tôi nghĩ, để có được thành công này là do có sự định hướng cực kỳ đúng đắnvà kịp thời của ban lãnh đạo Saigon Co.op thông qua việc lấy việc khách hàng là trung tâm. Đồng thời với sự thay đổi linh hoạt trong chiến lược phát triển, Saigon Co.op xứng đáng nhận được sự tin tưởng của khách hàng.
– Hapro đang có chiến lược tái định vị rất mạnh mẽ. Ông Vượng có thể chia sẻ về chiến lược này và kinh nghiệm của Hapro trong phát triển kênh phân phối?
Ông Nguyễn Tiến Vượng – Phó Tổng Giám đốc thường trực – Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro): Thời gian gần đây, việc phát triển hệ thống của Hapro có chậm lại trong khi đó thời gian trước phát triển thị trường bán lẻ rất mạnh. Hiện nay, điều kiện cạnh tranh khốc liệt chúng tôi nhận thấy cần phải xem xét tập trung vào tái cơ cấu về bộ máy cũng như phương thức kinh doanh của từng cửa hàng để nâng cao năng lực cạnh tranh hướng tới phát triển kinh doanh một cách bền vững.
– TGDĐ đã áp dụng mô hình của các nhà phân phối nước ngoài để phát triển vững chắc hoạt động của mình trong thời gian vừa rồi, ông có bình luận gì về mô hình bán lẻ của Trung Quốc và Hàn Quốc?
Ông Trần Nhật Linh – Giám đốc kênh bán hàng phi truyền thống Công ty Cổ phần Thế giới Di động: TGDĐ cũng nghiên cứu một số mô hình bán lẻ của Trung Quốc, họ cũng có những chuỗi bán lẻ chuyên ngành, những website thương mại điện tử. Tuy nhiên, khi đem về áp dụng phải tùy biến sao cho phù hợp với khách hàng VN.
Chẳng hạn, trước đây khách hàng vào cửa hàng TGDĐ, tủ trưng bày hàng hóa được đóng lại, khách hàng không thể sờ mó vào sản phẩm nhưng bây giờ đã thay đổi bằng cách là khách hàng có thể trải nghiệm sản phẩm trước khi mua. Trước đây, website bán hàng học theo mô hình nước ngoài, khách hàng phải thanh toán trước, thanh toán trực tuyến, nhưng giờ phải thay đổi vì khách hàng chủ yếu có nhu cầu giao hàng và thanh toán tận nơi. Như vậy, phương thức thành công chính là lấy khách hàng làm trung tâm trong mọi hoạt động mà TGDĐ đang lựa chọn. 
Bên cạnh đó, TGDĐ còn có một chiến lược phân phối khác biệt so với các siêu thị lớn. Với quy mô của TGDĐ về vốn và mặt bằng không có lợi so với các DN ngoại như BigC, Metro, kể cả các DN lớn trong nước như Co.op Mart, Nguyễn Kim nên TGDĐ chọn kênh phân phối là những cửa hàng có quy mô vừa và nhỏ. Hiện tại, TGDĐ đang có 250 cửa hàng bán lẻ và dự kiến tới 2015 sẽ có thêm 500 cửa hàng trên toàn quốc. Với chiến lược phân phối rộng khắp như vậy thì hiện tại các ông lớn cũng không đua lại TGDĐ. Đó cũng là điểm khác biệt chiến lược mà hệ thống phân phối đã giúp TGDĐ mang lại doanh thu và lợi nhuận như hiện tại.
– Suy nghĩ về sự hậu thuẫn cho hệ thống bán lẻ xuất phát từ ý thức của người tiêu dùng VN. Vận dụng quyền lực mềm này như thế nào? Sự thâm nhập của các công ty nước ngoài vào các công ty VN thông qua hình thức đầu tư. Đây có phải là giải pháp mà chúng ta phải tính đến không?
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Chúng ta đã tổ chức cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam và bước đầu đã có thắng lợi. Nhưng chúng ta cũng không thể chủ quan được muốn người Việt Nam ưa tiên dùng hàng Việt thì người sản xuất hàng hóa phải thực sự yêu nước. Có nghĩa là phải biết cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Nhìn ở góc độ phân phối thì sắp tới chúng ta thực hiện TPP, FTA. Khi đó thuế suất thuế nhập khẩu sẽ bằng 0 và đây cũng là thách thức đối với doanh nghiệp bán lẻ.
Tôi cảm thấy người dân rất thích dùng hàng Việt nếu chất lượng và giá cả cạnh tranh tốt trên thị trường. Bên cạnh đó, không chỉ giá cả, chất lượng mà còn cả chất lượng dịch vụ cũng phải được quan tâm.
Chúng ta phải xác định cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam là làm lâu dài và sẽ phải tích cực hơn trong thời gian tới. 
Một vấn đề nữa cũng phải xem xét đó là chúng ta mở cửa nên vấn đề hàng lậu, hàng kém chất lượng ồ ạt vào trong nước với giá rẻ. Do đó, việc kiểm soát và hạn chế nguồn hàng lậu này đang đặt ra và phải rốt ráo để thực hiện. 
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến ông Vũ Vinh Phú. Bộ Công thương là đơn vị thường trực của cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Hiện, Bộ Công thương đã xây dựng đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động, đã trình với ban cán sự Bộ Công thương. Sau khi ban cán sự có ý kiến, chúng tôi sẽ trình Chính phủ. Đề án chia ra từng giai đoạn. Ở giai đoạn 1, chúng tôi xây dựng các cửa hàng mang dáng dấp thương hiệu hàng Việt và một số thương hiệu khác. Tiếp đó, đến năm 2015 xây dựng mỗi tỉnh thành một cửa hàng, sau đó tiếp tục nhân lên.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đang xây dựng đề án Đổi mới phương thức kinh doanh nông sản. Dự kiến, đến cuối năm 2014 sẽ trình Chính phủ phê duyệt. Trong đề án này, chúng tôi cũng đã làm việc với Bộ Công nghiệp Thương mại Năng lượng Hàn Quốc, đề nghị phía Hàn Quốc hỗ trợ một trung tâm phân phối nông sản theo kiểu Hàn Quốc. Trong thời gian qua, phía Hàn Quốc cũng đã cử 2 giáo sư sang nghiên cứu, khảo sát tại VN. Hi vọng, trong trong năm nay phía Hàn Quốc sẽ trả lời chính thức về vấn đề này. Hiện, Phía bạn Hàn Quốc đã đưa đề nghị của VN vào chương trình nghị sự để bàn bạc, thảo luận.
– Thách thức và nguy cơ khi các DN bán lẻ nước ngoài vào thị trường Việt Nam? Chia sẻ của các DN về chiến lược tồn tại và phát triển trước nguy cơ bị thôn tính?
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Các DN nước ngoài có thể thôn tính DN VN thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu. Đây là bài toán của từng DN để quyết định việc nên bán hay không và việc bán bao nhiều %?
Cái chúng tôi quan tâm ở đây l về góc độ hậu quả pháp lý. Một là khi DN nước ngoài mua DN VN thì họ không còn là DN thuần việt nữa mà là DN FDI. Do vậy họ phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Họ muốn mở các địa điểm mới phải qua ENT (Economic Need Test). Thứ hai, khi DN nước ngoài mua DN VN phải xem xét chặt chẽ danh mục các mặt hàng phân phối bán lẻ không được phép kinh doanh đối với các DN nước ngoài. Đó là các mặt hàng: Gạo, đường, vàng bạc, sách báo, dược phẩm…
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Về vấn đề các nhà đầu tư nước ngoài, tôi nhớ là đã đọc qua quy định mới nhất, DN đầu tư khoảng 50% thì mới được coi là DN đầu tư nước ngoài. Còn từ 1 – 49 thì chưa được coi là đầu tư nước ngoài. Số liệu này cũng chưa thật chính xác nhưng tôi nhớ là đã đọc rồi, rất mới đây.
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: Đa sở hữu, quyền lực mềm phải được giám sát. Chúng ta không tránh khỏi sáp nhập nhưng quan trọng là chúng ta phải kiểm soát dòng tiền như thế nào, quản trị doanh nghiệp ra sao thì đó là mấu chốt vấn đề. Tôi xin nói thế này “đi với hươu nai thì phải hiền lành, đi với sói thì phải cẩn thận không bị lừa”.
Ban tổ chức tặng hoa cho khách mời tại đầu cầu Hà Nội
Ban tổ chức tặng hoa cho khách mời tại đầu cầu TP.HCM
– Điều gì là quan trọng nhất với các DN hiện nay để tăng khả năng cạnh tranh của các DN bán lẻ?
Ông Vũ Vinh Phú – Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội: “Không có gì quý hơn độc lập tự do, doanh nghiệp phải vượt qua chính mình để vươn lên”
Ông Nguyễn Trọng Tuấn – Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Bán lẻ và Quản lý Bất động sản Đại Dương: Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam luôn tin tưởng vào thị trường nội địa, tuy nhiên chúng tôi cần sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng như cung cấp thông tin, kế hoạch triển khai ban đầu, cách thức quảng bá thương hiệu. Hiện hệ thống siêu thị Ocean Mart đã vận hành được một thời gian, song song với việc liên tục kiểm tra, không chỉ riêng Ocean Mart, mà hệ thống bán lẻ Việt Nam dường như chưa được hỗ trợ nhiều về việc đăng tải thông tin về phía doanh nghiệp có lợi cho người tiêu dùng.
Chúng tôi mong muốn có có chính sách giá linh hoạt, cơ động, để doanh nghiệp có thể chủ động, đưa tới khách hàng những chương trình khuyến mại hấp dẫn vì thực tế hiện nay, các chương trình khuyến mại thường phải thông báo trước 1 tuần nên bản thân doanh nghiệp không thể chủ động áp dụng các chính sách giá mới tốt hơn cho khách hàng tại thời điểm cần thiết. Là một doanh nghiệp bán lẻ, mục tiêu cuối cùng của chúng tôi hướng tới là mang đến một mặt bằng giá tốt nhất để phục vụ và trở thành nơi mua sắm tin cậy của khách hàng.
Bà Đinh Thị Mỹ Loan – Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Việt Nam: Chúng tôi mong muốn các cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện tốt nhất cho Hiệp hội thực hiện tốt chức năng của mình để hỗ trợ DN cạnh tranh tốt nhất trên thị trường nội địa và vươn ra quốc tế. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng chúng tôi rất tin tưởng các DN VN sẽ phát triển đi lên và giữ vững thị trường.
Ông Nguyễn Tiến Vượng – Phó Tổng Giám đốc thường trực – Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro): Đương nhiên trong điều kiện hiện nay DN phải tự vươn lên. Rất cần sự ủng hộ và sự hỗ trợ của Nhà nước. Các DN trong nước rất cần sự chia sẻ và ủng hộ của người tiêu dùng trong điều kiện các DN bán lẻ VN còn rất non trẻ trong lĩnh vực hoạt động thương mại bán lẻ. Mặt khác chúng tôi cũng rất cần sự ủng hộ của các cơ quan truyền thông để hệ thống bán lẻ của VN ngày càng hoàn thiện, phát triển và đủ sức cạnh tranh với DN bán lẻ nước ngoài.
Ông Trần Nguyên Năm – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương): Để thị trường bán lẻ VN cùng với các DN bán lẻ VN phát triển ngày càng khẳng định mình trong thời gian tới, đề nghị cơ quan báo chí thường xuyên tổ chức những cuộc tọa đàm như thế này để tăng cường thông tin cho DN.
Tôi cũng đề nghị Hiệp hội bán lẻ VN sát cánh cùng Bộ Công thương để cuộc vận động người VN ưu tiên dùng hàng VN phát triển hơn nữa.
Ông Nguyễn Quốc Bảo – Chủ tịch Hội đồng Quản trị DT 24, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP HCM: Vẫn liên quan đến nguy cơ thôn tính, tôi cho rằng chúng ta nên có sự đánh giá lại trước hết về chính doanh nghiệp của ta. Trước nay, cả nước ta có khoảng gần 800.000 doanh nghiệp. Nhưng thực tế đã có 1/3 doanh nghiệp là đăng kí ảo không có vốn. Vì vậy số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động ít hơn. Trên bức tranh đó, giả sử nếu trong số các doanh nghiệp đang hoạt động thực tế có khoảng 1/3 doanh nghiệp là có khả năng thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, thì chúng ta sẽ có nguồn thu đóng góp cho ngân sách Nhà nước rất lớn; bản thân các chủ doanh nghiệp này có thể chỉ là nhà điều hành nhưng họ lại làm chủ nguồn tiền rất lớn và cũng có cơ hội để mua lại hoặc phát triển một doanh nghiệp mới. Trong khi đó, chúng ta cũng nên suy nghĩ là khi nước ngoài đầu tư, hay thậm chí thôn tính doanh nghiệp Việt Nam, họ vẫn cứ sử dụng nhân lực Việt Nam, người điều hành Việt Nam thì chúng ta vẫn đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động và thu nhập, như vậy thì có đáng lo ngại?
Ngoài ra, liên quan đến câu chuyện người Việt dùng hàng Việt mà các anh chị vừa đề cập, tôi có nghe các anh chị nói rằng tỷ lệ sử dụng lên tới 72%. Nếu đúng như vậy đây là một tỷ lệ rất đáng mừng. Nhưng chúng ta cũng vẫn chưa có chính sách ưu tiên đầy đủ để phát huy ưu thế hàng Việt. Chẳng hạn như chiến lược truyền thông cho hàng Việt, thay vì doanh nghiệp tự phát quảng cáo, cần được ưu tiên quảng cáo, truyền thông vào các giờ vàng tới hàng chục triệu người dân Việt. Song hành đó chúng ta cần phải có hàng Việt chất lượng cao.
Chủ động, cởi mở từ cả cách nhìn tiếp cận đầu tư, cạnh tranh hay chọn nhà đồng hành đến truyền thông hàng Việt, với ưu thế nhân lực, do chính người Việt điều hành, phục vụ, tôi cho rằng doanh nghiệp Việt vẫn rất có ưu thế. Nếu chúng ta có chiến lược “vây” doanh nghiệp và chúng ta làm tốt, không lo không cạnh tranh được với doanh nghiệp ngoại. Ngay cả Wal -Mart vào Việt Nam cũng chưa chắn có thể nắm 100% cơ hội thành công. Co-op Mart ngược lại đã đi ra quốc tế, phát triển trong khu vực ASEAN. Nên không thể nói chúng ta đang hoàn toàn bất lợi.

Theo dddn

Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
Không