Ngày 06/08/2025,Cục Thuế ban hành Công văn 2994/CT-CS 2025 để trả lời kiến nghị của bà Lê Thị Hương về việc áp dụng chính sách thuế TNCN trong trường hợp người nộp thuế mắc bệnh hiểm nghèo. Nội dung căn cứ của Công văn dựa trên trên Luật Thuế TNCN, Nghị định 65/2013/NĐ-CP, Thông tư 111/2013/TT-BTC, và Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14.
Nội dung chính của Công văn như sau:
1. Quy định về Khoản hỗ trợ khám chữa bệnh hiểm nghèo:
Tại điểm g Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 quy định như sau:
- Không tính vào thu nhập chịu thuế đối với khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động (theo chứng từ viện phí).
- Mức hỗ trợ không tính vào thu nhập chịu thuế là số tiền thực tế chi trả theo chứng từ trả tiền viện phí nhưng tối đa không quá số tiền trả viện phi của người lao động và thản nhán người lao động sau khi đã trừ số tiền chi trả của tố chức bảo hiêm.
- Hồ sơ lưu giữ: Người sử dụng lao động chi tiền hỗ trợ có trách nhiệm lưu giữ bản sao chứng từ viện phí và chứng từ chi bảo hiểm y tế có xác nhận của người sử dụng lao động, chứng từ chi hỗ trợ.
Như vậy, cá nhân mắc bệnh hiểm nghèo được loại trừ khỏi thu nhập tiền lương tiền công, không tính vào thu nhập chịu thuế TNCN khoản hỗ trợ của người sử dụng lao động cho việc khám chữa bệnh hiểm nghèo bản thân người lao động với số tiền thực tế chỉ trả theo chứng từ trả tiền viện phí nhưng tối đa không quá số tiền trả viện phí của người lao động sau khi đã trừ số tiền chi trả của tổ chức bảo hiểm (nếu có).
2. Quy định về giảm thuế
Tại Điều 4 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định như sau:
- Theo quy định tại Điều 5 Luật thuế Thu nhập cả nhân, Điều 5 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP, người nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.
- Việc xét giảm thuế được thực hiện theo năm tính thuế. Người nóp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo trong năm tính thuế nào thì được xét giảm số thuế phải nộp của năm tỉnh thuế đó.
- Số thuế phải nộp làm căn cứ xét giảm thuế là tổng số thuế thu nhập cá nhân mà người nộp thuế phải nộp trong năm tính thuế, bao gồm thuế thu nhập cá nhân đã nộp hoặc đã khấu trừ đối với các khoản thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, bản quyền, nhượng quyền thương mại, thừa kế, quà tặng; và thuế thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công.
- Căn cứ xác định mức độ thiệt hại để giảm thuế là tổng chi phí thực tế để khắc phục thiệt hại trừ đi các khoản bồi thường nhận được từ tổ chức bảo hiểm (nếu có) hoặc từ tổ chức, cá nhân gây ra tai nạn (nếu có).
- Số thuế được giảm được xác định như sau: nếu số thuế phải nộp trong năm tính thuế lớn hơn mức độ thiệt hại thì số thuế giảm bằng mức độ thiệt hại; nếu số thuế phải nộp trong năm tính thuế nhỏ hơn hoặc bằng mức độ thiệt hại thì số thuế giảm bằng số thuế phải nộp.
Theo đó, cá nhân mắc bệnh hiểm nghèo được giảm số thuế TNCN phải nộp trên phạm vi tổng số thuế phải nộp của các loại thu nhập thuộc diện điều chỉnh của Luật thuế TNCN. Số thuế TNCN được giảm thực hiện theo từng năm tính thuế với số thuế được giảm hàng năm căn cứ vào mức độ thiệt hại tối đa bằng tổng số thuế phải nộp hàng năm. Cá nhân mắc bệnh hiểm nghèo được giảm thuế TNCN cho tất cả các năm phát sinh chỉ phí khám chữa bệnh hiễm nghèo.
3. Quy định về giảm trừ gia cảnh:
Tại Điều 1 Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 ngày 02/6/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định:
- Mức giảm trù đối với đối tượng nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm);
- Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng
Hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo Nghị quyết của UBTVQH điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cao hơn mức quy định hiện hành; xây dựng dự thảo Luật Quản lý Thuế (thay thế) theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Nội dung cụ thể của Công văn như sau: