Cơ hội từ Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ phát huy lợi thế sẵn có của doanh nghiệp (DN) Việt Nam về các mặt hàng nông sản. Thuế bằng 0, cơ hội nông sản xuất khẩu sang các nước sẽ rất phát triển. Đầu tư cho nông nghiệp chỉ cần vài tháng là có lời, trong khi bất động sản, thủy điện mất nhiều năm mới thu hồi vốn… chừng đó thuận lợi đủ để hấp dẫn nhiều DN lớn của Việt Nam như Hoàng Anh Gia Lai, Trung Nguyên, TH True Mill và thu hút cả các DN trong lĩnh vực bất động sản, nội thất, khu công nghiệp, sản xuất sắt thép… chuyển hướng trồng mía, tỏi, sản xuất lúa gạo, nuôi bò sữa…, biến nông nghiệp trở thành kênh đầu tư quan trọng.
Ảnh minh họa
Lợi thế “tiền tươi”
Nhiều DN, từ bất động sản, đầu tư khu công nghiệp đến sản xuất đồ nội thất, đã chuyển hướng đầu tư cho nông nghiệp như một giải pháp “thoát hiểm” cho lĩnh vực cốt lõi đang có chiều hướng đi xuống hoặc bão hòa.
Chuyển hướng để gỡ khó
Theo ông Nguyễn Duy Hưng, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI), lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp của các quỹ đầu tư nước ngoài đang gia tăng, nên kênh đầu tư được SSI quan tâm trong năm 2014 là nông nghiệp. Cụ thể năm 2014, SSI tiếp tục đầu tư vào các công ty liên kết là HVG, NSC, SSC, PAN, GIL, VFG…
Đây là các công ty đang có nguồn lợi lớn từ chuỗi giá trị nông nghiệp – thực phẩm. Năm 2013, SSI cũng đã liên kết với nhiều DN trong lĩnh vực nông nghiệp và ký kết với một tập đoàn đa quốc gia hợp tác huy động, quản lý một quỹ đóng với 150 triệu USD, chuyên đầu tư vào các công ty trong chuỗi giá trị nông nghiệp, thực phẩm ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Ông Nguyễn Chí Hiếu, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Phát triển Nhà Thủ Đức (Thuduc House), cho biết: “Trước thực tế thị trường bất động sản bị ngưng trệ, Công ty đã quyết định chọn hướng kinh doanh mới là ngành nông lâm sản và phân bón để bổ trợ cho lĩnh vực chính. Dự kiến trong năm nay, Công ty sẽ ký nhiều hợp đồng xuất khẩu mặt hàng lâm sản, mỗi hợp đồng trị giá trên 10 triệu USD”.
Theo ông Hiếu, so với bất động sản, có thể nông nghiệp lợi nhuận thấp hơn nhưng lại cần ít vốn hơn, rủi ro thấp hơn và nếu “ăn chắc mặc bền” sẽ đảm bảo có lợi nhuận.
Sau nhiều năm bất động sản gặp khó, ông Nguyễn Văn Đạt, Chủ tịch HĐQT Công ty Phát Đạt rút ra bài học: Bên cạnh ngành kinh doanh chính, cần kinh doanh thêm những ngành phụ để tạo nguồn thu ổn định. Vì vậy, năm 2013, Phát Đạt đã đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như trồng rừng, cao su, gạo, chăn nuôi…
Tương tự, Công ty CP Đầu tư Thương mại, bất động sản An Dương Thảo Điền cũng đã tham gia góp vốn thành lập Công ty CP Đầu tư và Thương mại Ascentro để kinh doanh nông, lâm sản nguyên liệu (trừ gỗ, tre, nứa) và động vật sống.
Tập đoàn Hưng Thuận, chủ đầu tư các dự án bất động sản và khu công nghiệp, cũng thành lập Công ty CP Đầu tư sinh thái Vina Yến để đầu tư nuôi yến, trồng lan và nuôi cá tại tỉnh Long An. Chia sẻ lý do đầu tư, ông Lâm Trúc Nhỏ, Chủ tịch HĐQT Vina Yến, cho biết: “Doanh thu từ nuôi chim yến cao và ổn định. Đặc biệt, triển vọng cho việc xuất khẩu rất lớn do nhu cầu sử dụng tổ yến không ngừng gia tăng tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản”.
Ông Bùi Pháp, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đức Long Gia Lai cũng cho rằng, đầu tư vào nông nghiệp đang có lợi thế do Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải nhập khẩu gần 3 tỷ USD nguyên liệu bắp, đậu tương, bột cá… Đây là một thị trường lớn đang có sẵn đầu ra của cây nông nghiệp ngắn ngày nên Đức Long Gia Lai không bỏ qua cơ hội này. Trước đó, Tập đoàn Công nghiệp Tân Tạo cũng công bố thành lập Công ty CP Nghiên cứu và Xuất khẩu gạo thơm…
Đầu tư xa, hiệu quả gần
Mới đầu tư vào lĩnh vực trồng lúa gạo được một năm, nhưng Công ty Thép Cẩm Nguyên đã có rất nhiều đơn đặt hàng gạo chất lượng cao. Trong khi đó, mới đây, tại đại hội cổ đông, Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) công bố “nông nghiệp sẽ góp hơn 50% trong cơ cấu doanh thu của Tập đoàn trong năm 2014”. Cơ sở để HAGL tuyên bố xuất phát từ niềm tin vào nông nghiệp và thực tế đầu tư. Năm 2013, mảng nông nghiệp đã chiếm tỷ suất trên 60% doanh thu của Tập đoàn.
Hiện chỉ có khoảng 1-2% doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào nông nghiệp, nếu tỷ lệ này tăng gấp 10 lần, tình hình nông nghiệp Việt Nam sẽ khác hẳn. Chọn cây bắp và nuôi bò để chuyển hướng đầu tư mạnh vào nông nghiệp trong năm 2014, Chủ tịch HAGL Đoàn Nguyên Đức dự kiến trong năm 2014, doanh thu từ cây bắp sẽ mang lại cho HAGL 300 tỷ đồng. Riêng dự án nuôi bò, ông Đức cho rằng: “Vòng quay vốn của bò thịt khoảng 15 tháng, bò sữa thì thu tiền hằng ngày nên không ngại đọng vốn.
Mặt khác, lợi thế của HAGL là có 100.000 ha đất tại Lào, Campuchia, bằng phẳng, có sông suối nên rất thuận lợi để áp dụng kỹ thuật nuôi bò công nghệ cao. Với nguồn đất này, HAGL đã dành 70% đất để trồng bắp, mía và cọ dầu. Đây là lợi thế rất lớn vì trong chăn nuôi, 70% chi phí là thức ăn, trong khi HAGL có nguồn bã dầu và 50.000 tấn mật rỉ ra từ nhà máy đường và hàng trăm ngàn tấn hạt bắp, thân bắp phụ phẩm… sử dụng làm thức ăn để nuôi bò. Điều này giúp tăng giá trị lợi nhuận cho dự án và giảm rủi ro”.
Ông Hiếu tiết lộ: “Chưa đầy một tháng bắt tay vào mảng phân bón hóa học, hợp đồng đầu tiên đã mang lại doanh thu thuần cho Thuduc House khoảng hơn 44 tỷ đồng. Với mì lát, tổng cộng giá trị của các hợp đồng đã mang về doanh thu tương đương 62 tỷ đồng. Đặc biệt, Thuduc House đang thương lượng một hợp đồng dăm gỗ để sản xuất giấy với đối tác Sri Lanka, giá trị hợp đồng lên đến 83 tỷ đồng. Như vậy, chỉ trong vòng cuối quý I qua đầu quý II của năm 2013, doanh thu ước tính của lĩnh vực này mang lại cho Thuduc House Group khoảng 189 tỷ đồng”.
Trước đó, khi chuyển hướng nhà máy sữa Trường Xuân vào sản xuất sữa đậu nành, Công ty Vinasoy đã đẩy mức doanh số lên 90 lần sau 10 năm, từ 20 tỷ đồng năm 2001 lên hơn 1.900 tỷ đồng năm 2012. Ông Ngô Văn Tụ, Giám đốc Điều hành Vinasoy, cho biết, có được thành công này là nhờ chiến lược tập trung vào cây đậu nành và khai phá tiềm năng kinh doanh trong lĩnh vực này.
Để các dự án đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, ít rủi ro, một số DN đã tìm hướng hợp tác. Đơn cử, khi nhận thấy tiềm năng của củ tỏi có thể lên men làm thực phẩm chức năng, giá xuất khẩu cao, Công ty CP Chi Lai, chuyên kinh doanh đồ gỗ nội thất, đã chuyển hướng đầu tư trồng tỏi theo mô hình công nghệ cao để cung ứng nguyên liệu cho Công ty Leo Long.
Gần đây nhất, Công ty CP Thực phẩm dinh dưỡng NutiFood và Công ty TNHH MTV Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (Vissan) cũng đã hợp tác với HAGL để đầu tư chăn nuôi bò sữa, bò thịt, xây dựng nhà máy chế biến với tổng vốn đầu tư 11.300 tỷ đồng. Trong đó, HAGL tiếp tục đầu tư 6.300 tỷ đồng nuôi bò sữa và bò thịt với 236.000 con.
Bên cạnh đó, HAGL sẽ xây dựng nhà máy chế biến thịt bò với công suất 78.000 tấn/năm. Phía NutiFood sẽ đầu tư 5.000 tỷ đồng để xây dựng nhà máy sữa với công suất 500 triệu lít sữa tươi/năm. Dự kiến, nhà máy sẽ nằm tại KCN Trà Đa, trên diện tích 7 ha, cách trang trại bò sữa HAGL khoảng 40 km.
Mỗi năm Vissan nhập gần 100.000 con bò từ Úc, nên việc Visan và HAGL hợp tác sẽ giúp dự án bò sữa HAGL có đầu ra ổn định với số lượng lớn; riêng bò sữa đã có NutiFood đảm nhận bao tiêu.
Ông Trần Thanh Hải, Chủ tịch HĐQT Công ty NutiFood, cũng cho biết: “Lợi thế để NutiFood quyết định hợp tác với HAGL trong mảng nông nghiệp là do Bộ Công Thương đã ban hành quyết định quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa với mục tiêu năm 2015 cả nước tiêu thụ sữa đạt trung bình 21 lít/người/năm và tới năm 2020 sẽ đạt bình quân 27 lít/người/năm. Với tiềm năng như vậy nhưng hiện nay, ngành sữa của nước ta chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Tính đến năm 2013, quy mô đàn bò sữa của Việt Nam mới đạt 184 ngàn con, đáp ứng được nguồn sữa tươi nguyên liệu mới khoảng 30% nhu cầu”.
Khát đất sạch
Chuyển hướng đầu tư vào nông nghiệp, nhiều DN (DN) có chiến lược kinh doanh bền vững, xác định đầu tư theo mô hình công nghệ cao. Nhưng lĩnh vực này mới chỉ có những DN có tài chính mạnh và quỹ đất lớn.
Phân tích hiệu quả đầu tư nông nghiệp theo mô hình công nghệ cao, ông Đoàn Nguyên Đức khẳng định: “Làm nông nghiệp muốn đạt năng suất cao phải áp dụng công nghệ cao, cơ giới toàn bộ. Cụ thể, chúng tôi ứng dụng công nghệ cao ngay cả trước khi xuống giống cho đến khi thu hoạch sản phẩm. Với việc cơ giới hóa toàn bộ, chi phí giá thành giảm xuống mức thấp nhất. Chẳng hạn, chi phí chặt mía của chúng tôi chỉ 30.000 đồng/tấn so với 200.000 đồng/tấn tại Việt Nam như hiện nay”.
Tương tự, áp dụng công nghệ cao, dự án TH true Milk tại Nghĩa Đàn, Nghệ An cũng đã biến một vùng đất hoang hóa thành vùng nguyên liệu trù phú, tăng hiệu quả kinh tế của một ha đất lên gấp nhiều lần nhờ áp dụng quy trình kỹ thuật hiện đại vào các loại cây trồng, nâng đời sống cho người nông dân, đem lại việc làm cho hàng nghìn nông dân, đặc biệt những người sau khi đào tạo đã trở thành công nhân trong nhà máy ứng dụng công nghệ cao.
237 tỷ USD
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp vừa ít, lại có xu hướng giảm dần vì nhiều cản trở. Tính đến hết tháng 4/2014, có 16.300 dự án FDI được cấp phép đầu tư vào nước ta, với tổng vốn 237 tỷ USD nhưng vốn vào nông nghiệp chỉ được 503 dự án, chiếm 3,36 tỷ USD, tương đương khoảng 1,4% tổng vốn đầu tư. Vốn FDI vào nông nghiệp ít, lại chủ yếu đầu tư vào Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, còn các tỉnh vùng sâu, vùng xã hầu như chưa có dự án nào. Tuy nhiên, nhiều người ví von: “Trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, DN Việt như Thánh Gióng đã sẵn sàng vươn vai đứng dậy nhưng còn thiếu cây gậy và chú ngựa sắt, đó là thiếu các chính sách đột phá, đặc biệt là về tín dụng và cơ chế đất đai”.
Theo ông Đoàn Đình Hoàng, chuyên gia tư vấn thương hiệu và đầu tư nông nghiệp, đầu tư nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi vốn lớn. Đó là chưa nói đến hàng loạt các rào cản khác như chính sách thu hút nhà đầu tư vào lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức, chưa có mức lãi suất ưu đãi cho DN, dịch vụ phụ trợ cũng như vấn đề con người trong những lĩnh vực này còn thiếu và yếu, cơ chế hoạt động còn manh mún và thiếu tầm nhìn dài hạn…
Tuy nhiên, điều các DN cho là nan giải nhất khi đầu tư vào nông nghiệp là quỹ đất. Do chính sách ruộng đất hiện nay, việc tìm ra những khu đất có diện tích lớn để phát triển nông nghiệp quy mô lớn là rất khó.
Bà Huỳnh Thị Bích Ngọc, Chủ tịch Công ty Thành Thành Công, cho biết: “Tại Việt Nam, khó khăn nhất vẫn là không có quỹ đất quy mô lớn, rất khó để cơ giới hóa, nên từ ba năm trước, Tập đoàn Thành Thành Công đã chuyển hướng đầu tư cho nông dân tỉnh Svey Rieng, Campuchia phát triển hơn 5.000 ha mía nguyên liệu”.
Thực tế lâu nay, tình trạng manh mún đất đai nông nghiệp ở nước ta là nguyên nhân làm giảm tính hiệu quả của sản xuất: người nông dân phải đầu tư nhiều thời gian và công lao động hơn cho nông nghiệp, phải canh tác nhiều loại cây trồng khác nhau do tính chất và địa hình của các thửa đất không giống nhau; sản phẩm thu hoạch mỗi thửa một khác, không đồng nhất về chất lượng…
Chính cánh đồng bị chia nhỏ như ô bàn cờ, đặc biệt là ở miền Bắc, đang là rào cản khiến việc áp dụng máy móc và công nghệ hiện đại trở nên không khả thi và cũng không cần thiết. Nếu nhìn ra các nước, có thể nhận thấy, việc phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đều phải có điều kiện tiên quyết là tích tụ ruộng đất quy mô lớn và tập trung.
Từng vấp phải khó khăn về đất khi xây dựng trang trại cho dự án sản xuất sữa tươi sạch TH true Milk, bà Thái Hương, Chủ tịch Tập đoàn TH, cho rằng, để xây dựng thành công mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thì việc tích tụ ruộng đất là một trong những yếu tố then chốt. Không thể phát triển nông nghiệp công nghệ cao nếu quy mô tủn mủn, ruộng đất không đủ. Ít nhất phải tự chủ được 60% như TH, 40% kết hợp cùng nông dân.
Không chỉ có DN, từ góc độ chuyên gia, tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách, TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (IPSARD), đã chia sẻ: “Một trong những cản trở đối với phát triển một nền nông nghiệp hiện đại của Việt Nam là đất đai. Đáng lẽ quỹ đất ở nông thôn phải thuận lợi hơn thành phố. Ở các tỉnh, vào các khu công nghiệp thì được trải thảm đỏ, nhưng muốn làm một vùng nguyên liệu nông sản, các trang trại chăn nuôi quy mô lớn hoàn toàn không đơn giản vì rất khó kiếm được vài chục hecta đất sạch”.
Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam từng bước phát triển và đạt những kết quả to lớn. Đặc biệt, chính sách tam nông và việc sửa đổi Luật Đất đai đã bắt đầu mở đường cho việc tích tụ ruộng đất làm nông nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều điểm nghẽn cản trở phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao. TS. Đặng Kim Sơn đưa ra ba giải pháp: “Thứ nhất là đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thông huyết mạch giao thông. Thứ hai là cung cấp đất sạch, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động cho thuê, giao đất, góp đất, kể cả đất của dân, của nông lâm trường trước đây, đất do địa phương quản lý… Thứ ba là giảm và miễn tối đa các phí, thuế có liên quan cho DN đầu tư vào nông nghiệp, khấu trừ thuế VAT cho nguyên liệu vật tư thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp”.
Bà Thái Hương đề xuất: “Nên chuyển đất của các nông lâm trường, của các tổng đội thanh niên xung phong, và các công ty đã được cấp rồi nhưng hoạt động không hiệu quả sang cho các DN có đủ tâm – trí – lực để phát triển nông nghiệp công nghệ cao một cách bền vững. Bên cạnh đó, khi có chủ trương, có chính sách, giai đoạn đầu, hãy để Nhà nước hỗ trợ và doanh nhân làm.
Người nông dân đứng ngoài để nhận ra sự thay đổi. Giai đoạn tiếp theo, hãy kéo họ vào qua việc lập các công ty nguyên liệu khi họ đã nhận ra hiệu quả của những thay đổi. Bởi vì thuyết phục và gắn kết ngay các hộ sản xuất mạnh mún, đất đai phân tán và trình độ sản xuất còn thấp là rất khó”.
Theo DNSG
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông