Kiến thức Tài chính kế toán Thêm công cụ giám sát, thanh tra doanh nghiệp nhà nước

Thêm công cụ giám sát, thanh tra doanh nghiệp nhà nước

33
Những tồn tại, hạn chế bộc lộ tại các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đặt ra yêu cầu cần đẩy mạnh thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát. Để phát huy hiệu quả công tác này, ngày 20/5/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 49/2014/NĐ-CP về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu.
Phần mềm kế toán MISA SME – 27 năm số 1 Việt Nam

Ảnh minh họa.

Tồn tại cần thay đổi
Giám sát, kiểm tra, thanh tra là nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh, nhiệm vụ tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN đang được Đảng, Nhà nước đặt ra thì công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN càng cần thiết.
Trong những năm qua, hệ thống cơ chế, chính sách giám sát, kiểm tra, thanh tra tài chính DN đã được hình thành và đang dần được hoàn thiện theo hướng đổi mới, nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực nhà nước tại DN, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại nảy sinh trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu tại DNNN khiến cho các nguồn lực Nhà nước tại các DN chưa phát huy hiệu quả, thậm chí gây thất thoát. Nguyên nhân căn bản là do vẫn còn nhiều “lỗ hổng” trong cơ chế, chính sách quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát. Phát hiện sai phạm của các DNNN trong thời gian qua tập trung ở một số dạng như: sai quy trình thủ tục theo các quy định của Nhà nước; sai thẩm quyền; sai đối tượng cho phép; hạch toán không đúng nguồn dẫn đến phản ánh kết quả sản xuất, kinh doanh không đúng bản chất thực tế; trình độ quản lý DN yếu kém dẫn đến vi phạm quản lý kinh tế và vi phạm pháp luật. Cùng với những yếu kém nội tại của DNNN, sự hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát cũng là nguyên nhân khiến các sai phạm trong quản lý vốn của Nhà nước tại các DN này trở nên phổ biến. 
Mặc dù, việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN đã được quy định trong khá nhiều văn bản pháp luật: Quyết định số 271/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành “Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN” và sau đó được thay thế bằng Quyết định số 169/2007/QĐ-TTg ngày 8/11/2007 về việc ban hành “Quy chế giám sát đối với DNNN kinh doanh thua lỗ, hoạt động không có hiệu quả”. Đặc biệt, Nghị định 61/2013/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành “Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn Nhà nước” đã góp phần hoàn thiện thêm khung pháp lý về giám sát DNNN. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, nhiều văn bản pháp luật đã bộc lộ bất cập như: chưa có quy định cụ thể và phân biệt rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DN; các chế tài xử lý cũng chưa đủ mạnh, thiếu quy định trách nhiệm cụ thể của cá nhân để xảy ra sai phạm; bản thân cơ quan có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và DNNN vẫn chưa nghiêm túc trong việc giám sát, chấp hành giám sát và đưa ra biện pháp khắc phục kịp thời, để đến khi sai phạm xảy ra, gây thất thoát nguồn tài sản không nhỏ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, cơ chế hiện hành chưa làm rõ trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước trong hoạt động giám sát, đánh giá; cơ chế công khai, minh bạch hóa thông tin vẫn còn nhiều yếu kém. Hơn nữa, việc giám sát nội bộ DNNN hiện nay còn chưa thực sự tốt do chưa có sự tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Các chỉ tiêu giám sát, đánh giá cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như nặng về các chỉ tiêu tài chính, chưa đủ để làm cơ sở giám sát, đánh giá vai trò và chức năng của DNNN trong nền kinh tế. Việc chưa quy định rõ quy trình, thời hạn, thủ tục, phương pháp, công cụ và trách nhiệm thực hiện giám sát (định kỳ, đột xuất) dẫn đến tính trạng lúng túng trong thực hiện, nếu thực hiện cũng thiếu chuẩn mực, không hiệu quả, mang tính hình thức. Cơ chế giám sát chỉ tập trung vào việc giám sát, đánh giá các DN mà chưa chú trọng đến giám sát quá trình thực thi chức năng chủ sở hữu Nhà nước. Bản thân việc đánh giá các chỉ tiêu đang sử dụng hiện nay chưa tạo nhiều động lực và trách nhiệm bắt buộc các DN phải tối đa hóa kết quả thực hiện. Các chỉ tiêu giám sát chưa thực sự trở thành công cụ để kịp thời phát hiện, cảnh báo về nguy cơ, dấu hiệu rủi ro về tài chính và sản xuất kinh doanh.
Lấp đầy “lỗ hổng”
Để xử lý những bất cập, tồn tại trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định 49/2014/NĐ-CP về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu. Có hiệu lực thi hành từ ngày 10/7/2014, mục đích của giám sát, kiểm tra, thanh tra nhằm nắm bắt, phản ánh và đánh giá đúng đắn về việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu đối với các DNNN. Qua đó kịp thời chấn chỉnh hoặc áp dụng các biện pháp phù hợp, giúp DN khắc phục những tồn tại, hạn chế để nâng cao hiệu quả kinh doanh; Đồng thời, giúp các cơ quan quản lý nhà nước, chủ sở hữu phát hiện những yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các DNNN; Xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý; Kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập trong chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý đối với các DNNN để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những biện pháp khắc phục, hoàn thiện; Tăng cường thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước; khuyến khích việc chia sẻ, nhân rộng những kinh nghiệm tốt, mô hình kinh doanh có hiệu quả giữa các DNNN.
Đối tượng được xác định để kiểm tra, giám sát, thanh tra là những DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ được Thủ tướng Chính phủ, hoặc các bộ quản lý ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập và các DN mà Nhà nước nắm giữ trên trên 50% vốn điều lệ. Bên cạnh việc thường xuyên kiểm tra, giám sát, hoạt động thanh tra DN sẽ được tăng cường hơn. Ngoài thanh tra đột xuất khi phát hiện sai phạm, các DNNN sẽ bị thanh tra tối thiểu 2 năm một lần về việc chấp hành pháp luật và thực hiện các quyết định của chủ sở hữu. Nghị định cũng quy định rõ chế tài đối với người quản lý DN, bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố khi để xảy ra sai phạm. Hình thức xử lý cao nhất là cách chức với bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN thuộc quyền quản lý dẫn đến thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước.
Các lĩnh vực được giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật bao gồm: Một là, quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước, chế độ tài chính và giám sát tài chính đối với các DN theo quy định của Nghị định số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành; Hai là, sắp xếp, đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của DN; xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh đối với DN; Ba là, tuyển dụng, quản lý, sử dụng lao động; đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chế độ, chính sách khác đối với người quản lý DN, người đại diện và người lao động làm việc tại DN; Bốn là, quy định của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh; quy định, quy trình về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh của DN; Năm là, các quy định của pháp luật về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, đánh giá hiệu quả hoạt động và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh của DN; Sáu là, các quy định của pháp luật khác theo yêu cầu của chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngoài ra, vào quý IV hằng năm, căn cứ vào tình hình hoạt động của các DNNN thuộc quyền quản lý, chủ sở hữu là bộ quản lý ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo việc xây dựng, phê duyệt và thực hiện kế hoạch giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN. Nội dung về thanh tra của kế hoạch giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN hằng năm phải thống nhất với định hướng chương trình thanh tra do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hướng dẫn xây dựng kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ và kế hoạch thanh tra của chủ sở hữu; chủ sở hữu là DN cấp 1 xây dựng, phê duyệt và thực hiện kế hoạch giám sát, kiểm tra đối với các DN cấp 2. Kế hoạch giám sát, kiểm tra, thanh tra DNNN hằng năm phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, đối tượng, phạm vi giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với mỗi DN và được gửi cho Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan nhà nước có liên quan để lấy ý kiến và sau khi phê duyệt để phối hợp thực hiện.
Nghị định cũng quy định nguyên tắc giám sát, kiểm tra, thanh tra phải tuân theo các quy định của pháp luật và bảo đảm tính khách quan, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch; tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa chủ sở hữu, cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra; Không làm cản trở hoạt động bình thường của các doanh nghiệp là đối tượng giám sát, kiểm tra, thanh tra và các chủ thể có liên quan khác; Không trùng lặp về phạm vi, nội dung, đối tượng, thời gian kiểm tra, thanh tra giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
Không