Người ta khuyến cáo rằng khái niệm về một công ty nhỏ được giới thiệu vì mục đích phân biệt các yêu cầu báo cáo tài chính được luật pháp quy định dành cho các công ty tư nhân. Nếu một công ty tư nhân nhỏ hoàn thành hai trong số ba tiêu chí sau đây, công ty có thể được miễn kiểm toán:
Tiêu chí 1: Tổng doanh thu hàng năm không vượt quá 10 triệu USD.
Tiêu chí 2: Tổng tài sản không vượt quá 10 triệu USD.
Tiêu chí 3: Số nhân viên không vượt quá 50.
Một công ty tư nhân ở Singapore được miễn kiểm toán nếu:
1. Có dưới 20 cổ đông.
2. Tổng doanh thu dưới 5 triệu USD/năm.
3. Không có công ty nào khác có lợi ích trực tiếp.
Theo những thực tế chính của ACRA và các xu hướng của nghề kế toán công và Thị trường Singapore (2008), 70% các công ty ở Singapore là các công ty tư nhân có doanh thu dưới 5 triệu USD được miễn kiểm toán.
ICPAS đề xuất với Ban điều hành đối với việc rà soát Luật công ty hỗ trợ cho tiêu chí mới để xác định việc miễn kiểm toán cho các công ty nhỏ như là nên hạ thấp chi phí kinh doanh cho những công ty như vậy. Tuy nhiên, cũng có quan điểm rằng một số công ty sẽ vẫn lựa chọn để báo cáo tài chính của họ được kiểm toán vì những lý do khác chẳng hạn như có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ở bên ngoài.
Tuy nhiên, có câu hỏi: Các công ty nhỏ có nên buộc phải kiểm toán, hay được phép tự quyết định?
Luận cứ kinh tế chính để yêu cầu các công ty có các cuộc kiểm toán đó là: Kiểm toán là một lợi ích công. Lợi ích công là một lợi ích mà khó để loại trừ ai đó khỏi việc sử dụng, mặc dù người đó đã không thanh toán cho lợi ích đó, và việc sử dụng của một người không làm ngăn cản người khác sử dụng lợi ích. Kiểm toán là một lợi ích công bởi vì lợi nhuận của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán đáng tin cậy không bị hạn chế với những người thanh toán cho việc kiểm toán. Ví dụ, thông tin đã được kiểm toán có thể được những cổ đông tiềm năng sử dụng để hiểu về năng lực tài chính của công ty được các cơ quan tài chính sử dụng trong việc đánh giá vốn vay hoặc các thể thức tín dụng cho một công ty. Bởi vì kiểm toán cung cấp lợi nhuận cho những cổ đông bên ngoài này, có một mối nguy cơ rằng chế độ kiểm toán tự nguyện sẽ khiến quá ít cuộc kiểm toán được tiến hành (quá ít từ một quan điểm xã hội). Những luận cứ tương tự được đưa ra đối với việc có những thị trường tự nguyện cho những loại lợi ích công khác chẳng hạn như chiếu sáng đường phố.
Trong khi luận cứ lợi ích công đang bắt buộc, có hai lý do để tin rằng kiểm toán tự nguyện có thể là tốt hơn. Trước hết, luận cứ lợi ích công không có giá trị nếu có quá ít cá nhân được hưởng lợi từ một cuộc kiểm toán nhưng không đóng góp vào chi phí. Trong tình huống này, tốt hơn là cho phép các cổ đông quyết định cho chính mình liệu họ có muốn thanh toán cho công ty của họ để được kiểm toán hay không, đó là thị trường tự do hoạt động tốt nhất.
Luận cứ thứ hai đối với kiểm toán bắt buộc thì tinh tế hơn và do đó hấp dẫn hơn. Đó là một yêu cầu kiểm toán bắt buộc giữ bí mật thông tin có giá trị về các loại công ty mà sẽ tự nguyện lựa chọn để được kiểm toán. Ví dụ, nếu công ty A lựa chọn để được kiểm toán tự nguyện trong khi đó công ty B lựa chọn để không bị kiểm toán, khi đó sự lựa chọn này đưa ra tín hiệu một sự khác biệt giữa thái độ của các công ty. Ví dụ, một người vay có thể suy ra rằng công ty A đáng tin cậy hơn là công ty B, dựa vào việc công ty A đang tự nguyện đệ trình tới một cuộc kiểm toán. Bằng cách bắt buộc cả hai công ty kiểm toán, chế độ bắt buộc có giá trị này về sự đáng tin cậy về khả năng trả nợ tương đối của mỗi công ty.
Giáo sư Jeff Pittman tại trường Đại học Memorial của Newfoundland và Giáo sư Clive Lennox, Phòng kế toán, trường Kinh doanh Nanyang, Trường Đại học Công nghệ Nanyang đã kết hợp làm một nghiên cứu. Họ tập hợp thông tin tại 5.139 công ty tư nhân nhỏ tại Anh quốc. Việc này được lựa chọn bởi vì dữ liệu sẵn có hơn cho các công ty tư nhân ở Anh quốc và nó cho phép Singapore học hỏi kinh nghiệm của Anh quốc. Trước năm 2003, mọi công ty đã được kiểm toán, nhưng do một sự thay đổi trong chế độ miễn kiểm toán vào năm 2004, họ được đưa ra một lựa chọn. Trong số 5.139 công ty trong ví dụ này, 3.440 công ty (67%) tiến hành kiểm toán trong năm đầu tiên của chế độ tự nguyện (đó là năm 2004), trong khi đó 1.699 công ty (33%) đã lựa chọn trở thành không bị kiểm toán ngay sau khi có phương án này.
Các chuyên gia này đã nhìn vào các đánh giá mức tín dụng được cấp cho 3.440 công ty mà tiếp tục với việc kiểm toán vào năm 2004. Vì những công ty này, không có thay đổi nào trong việc bảo đảm tín dụng bởi vì các công ty đã được kiểm toán cả trong năm 2003 và khi các cuộc kiểm toán đã bắt buộc, và năm 2004 khi các cuộc kiểm toán là tự nguyện. Khi đó họ dự đoán rằng những công ty này đã truyền một tín hiệu tích cực về sự đáng tin cậy về khả năng trả nợ bằng cách lựa chọn được kiểm toán tự nguyện vào năm 2004. Phù hợp với dự đoán này, họ phát hiện ra rằng các công ty đã trải qua một sự cải tiến trong việc đánh giá mức tín dụng của họ nếu họ tiếp tục với kiểm toán năm 2004. Phát hiện này vẫn giữ nguyên thậm chí sau khi kiểm soát các yếu tố khác mà ảnh hưởng tới việc đánh giá mức tín dụng chẳng hạn như những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô và những thay đổi trong đặc điểm của công ty giữa năm 2003 và 2004 (Ví dụ, những thay đổi về quy mô và thành tựu của công ty).
Sau đó họ đã nhìn vào đánh giá mức tín dụng được cấp cho 1.699 công ty mà đã miễn kiểm toán vào năm 2004. Đối với nhóm này, họ đã dự đoán một sự sụt giảm trong đánh giá mức tín dụng vì hai lý do. Thứ nhất, có một sự sụt giảm trong bảo đảm tín dụng bởi vì các công ty đã được kiểm toán vào năm 2003 nhưng không kiểm toán vào năm 2004. Thứ hai, những công ty này đã được truyền một tín hiệu tiêu cực về sự đáng tin cậy về khả năng trả nợ bằng cách lựa chọn để miễn kiểm toán vào năm 2004. Phù hợp với dự đoán của họ, họ đã phát hiện ra rằng các công ty đứng ngoài đã bị sụt giảm nghiêm trọng về đánh giá xếp hạng tín dụng vào năm 2004.
Ngoài đánh giá xếp hạng tín dụng, họ đã kiểm tra phí kiểm toán mà các công ty đang thanh toán trong suốt năm cuối của chế độ kiểm toán bắt buộc. Trong số 1.699 công ty lựa chọn không bị kiểm toán vào năm 2004, phí kiểm toán trung bình vào năm 2003 chỉ là 4.270 bảng Anh (xấp xỉ 12.000 USD). Khi so sánh, phí kiểm toán trung bình năm 2003 là 5.680 bảng Anh (xấp xỉ 16.000 USD) trong số 3.440 công ty đã giữ lại việc kiểm toán vào năm 2004. Sự khá biệt này vẫn có tầm quan trọng lớn mặc dù sau khi kiểm toán cho các yếu tố quan trọng khác mà ảnh hưởng tới phí kiểm toán chẳng hạn như quy mô của công ty và công ty kiểm toán.
Nói chung, các phát hiện đối với phí kiểm toán đưa ra giả thuyết rằng các công ty đứng ngoài chú ý tới việc giảm thiểu chi phí kiểm toán trong suốt chế độ bắt buộc. Nhưng công ty này đã giảm thiểu chi phí của mình bằng cách thanh toán chi phí kiểm toán tương đối thấp trong khi đó các công ty thực sự muốn được kiểm toán đã thanh toán phí kiểm toán cao hơn.
Theo Tạp chí kế toán