Theo dự thảo thông tư của Bộ Tài chính, đối tượng áp dụng việc nhận, góp vốn bằng Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu là các tập đoàn, tổng công ty, Doanh nghiệp, tổ chức có giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Bên góp vốn tự thỏa thuận với nhau về các điều khoản, độc quyền sử dụng nhãn hiệu; quyền kinh doanh dịch vụ, hàng hóa tương ứng để sử dụng nhãn hiệu. Thời hạn góp vốn không vượt quá thời hạn bảo hộ mà pháp luật quy định đối với nhãn hiệu đó. Trong thời hạn góp vốn bằng Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, đơn vị có nhãn hiệu sẽ không được phép chuyển nhãn hiệu cho tổ chức, cá nhân khác.
Đối với bên góp vốn, Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu góp vốn được ghi nhận là một khoản đầu tư, nhưng giá trị đó không được phản ánh tăng tài sản, vốn chủ sở hữu. Do đó, bên góp vốn có trách nhiệm mở sổ theo dõi riêng ngoài bảng cân đối kế toán đối với phần Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu đã đầu tư tham gia góp vốn, thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng góp vốn. Hàng quý, năm bên góp vốn có quyền được chia cổ tức, lãi – lỗ từ phần vốn góp, sau đó thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Doanh nghiệp sẽ được hạch toán vào thu nhập của đơn vị.
Đối với bên nhận góp vốn bằng Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu thì được phép ghi tăng tài sản dài hạn khác, ghi tăng nguồn vốn chủ sở hữu trên bảo cân đối kế toán của Doanh nghiệp, lấy đó là cơ sở để thực hiện phân chia lợi nhuận, trách nhiệm, chi trả cổ tức theo tỷ lệ tham gia góp vốn. Điều đặc biệt trong quy chế này là, Doanh nghiệp nhận góp vốn sẽ không được trích khấu hao đối với phần vốn góp bằng Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu và không được pháp hành cổ phiếu tương ứng với giá trị nhãn hiệu nhận góp vốn.
Theo phân tích của các chuyên gia thì, quy định như trong dự thảo thông tư của BTC đang đưa ra lấy ý kiến hiện nay còn quá sơ sài, rất rễ nảy sinh trường hợp nhiều Doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty nhà nước có thương hiệu mạnh sẽ bị lạm dụng, đem góp vốn tùy tiện, dẫn đến gây thất thoát giá trị tài sản, thậm chí là làm hỏng hình ảnh, giá trị thương hiệu của Doanh nghiệp. Đại diện một tổng công ty nhà nước có thương hiệu khá nổi tiếng lý giải, thực tế giá trị thương hiệu là loại tài sản rất khó xác định chính xác, bản thân Doanh nghiệp có thương hiệu cũng rất khó kiểm soát, định giá được thương hiệu của chính mình. Chính vì thế, nếu không có quy định nghiêm ngặt thì cả người góp vốn và nhận góp vốn sẽ rất dễ mặc cả, “đi đêm” với nhau khi thực hiện các hợp đồng góp vốn bằng Giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu.
Một mối lo ngại khác, đó là tình trạng, nếu một Doanh nghiệp mới thành lập, sản phẩm, dịch vụ chưa được người tiêu dùng quan tâm, biết đến nhưng khi được khoác lên mình “chiếc áo” có thương hiệu nổi tiếng của Doanh nghiệp góp vốn thì đương nhiên giá trị hàng hóa, dịch vụ sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng, trường hợp một thương hiệu lớn, có tên tuổi mà đem đi góp vốn tràn lan vào cả những lĩnh vực không phải là thế mạnh, không kiểm soát được Doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ nhận góp vốn của mình, để họ làm giả, làm nhái hàng hóa, dịch vụ thì tất yếu giá trị thương hiệu sẽ bị pha loãng, thậm chí bị làm xấu đi, thập chí làm thất thoát tài sản thương hiệu của Doanh nghiệp khi thương hiệu đó bị gắn với Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng không đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.
Vì vậy, các chuyên gia khuyến nghị, các quy định, tiêu chuẩn, điều khoản trong quy định góp, nhận vốn góp, phải được cụ thể hóa một cách chặt chẽ. Các cam kết về tiêu chuẩn, điều kiện sử dụng nhãn hiệu, logo, hình ảnh, kích thước, mẫu biểu trưng, biểu tượng của từng thương hiệu cần được chi tiết hóa, từ đó cơ quan quản lý mới có thể giám sát chặt chẽ việc góp vốn và nhận góp vốn đối với các thương hiệu thuộc sở hữu nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước. Đồng thời, việc quy định các tiêu chí, quy chuẩn chặt chẽ cũng sẽ tạo điều kiện giám sát việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ của bên nhận góp vốn, để tránh bị lợi dụng, từ đó làm giả, làm nhái hàng hóa, gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng./.
Theo Tạp chí Thuế nhà nước