Nhà kinh tế Paul Blustein nhận định bài học rút ra là cách thức tuyên bố phá sản; phải làm sao để mọi sự diễn ra có trật tự, không đột ngột, để tránh gây sốc và thảm họa.
“Phá sản”, “vỡ nợ”, “bị phát mại, tịch biên gia sản” là những từ ngữ luôn có khả năng làm người nghe giật mình. Nói đến nợ quốc gia, người dân cũng thường lo sợ rằng những khoản nợ khổng lồ sẽ khiến nền kinh tế đổ vỡ và con cháu chúng ta sẽ phải nai lưng trả nợ cho cha ông. Tuy nhiên, thực chất vấn đề nợ quốc gia không hoàn toàn như số đông vẫn nghĩ. Với riêng Việt Nam, rủi ro nằm ở một chỗ khác…
Nợ quốc gia, hay còn gọi là nợ công, là các khoản nợ của chính quyền, tồn tại dưới hình thức các chứng khoán mà chính quyền phát hành và đang nợ. Tính đến cuối năm 2011, nợ công của Việt Nam đã lên tới 58,7% GDP.
Khi Cục Quản lý Nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) công bố con số nợ công, nhiều người băn khoăn không hiểu tỉ lệ 58,7% và 31,1% GDP trên đây là ít hay nhiều, liệu có khả năng các thế hệ tương lai của Việt Nam phải “è cổ gánh nợ” hay không và quan trọng nhất là: Sẽ ra sao khi một quốc gia phá sản? Thắc mắc càng trở nên đáng lo ngại khi đặt trong bối cảnh Hy Lạp vừa trải qua khủng hoảng nợ công, làm cả châu Âu phải dốc sức ứng cứu.
Quốc gia vỡ nợ thì làm sao?
Sử dụng tỉ lệ nợ công tính trên GDP là một trong những biện pháp chủ yếu để đánh giá nợ của một quốc gia. Chẳng hạn, một trong các tiêu chuẩn của EU để được gia nhập đồng euro là nợ của một quốc gia không được vượt quá 60% GDP của nước đó.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), cũng có những trường hợp tỉ lệ nợ công tính trên GDP không phải là vấn đề, mà quan trọng là khả năng trả nợ của quốc gia như thế nào. Ví dụ, nợ công của Nhật Bản lên tới 200% GDP, thuộc hàng cao nhất trong những nước phát triển nhưng do kinh tế tăng trưởng ổn định (dù không cao), vẫn đảm bảo thu được thuế, cho nên không ở tình trạng báo động về nợ công. Song cùng thời gian đó, ở châu Âu lại xảy ra khủng hoảng nợ công khiến nhiều nước lao đao, với tỉ lệ nợ công của Hy Lạp năm ngoái là 160% GDP, Ý 120% GDP, Hungary 76,1% GDP. Lý do là tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ thấp, thậm chí âm.
Bên cạnh đó, cơ cấu nợ cũng là một yếu tố để xem xét, chẳng hạn nếu có một cơ cấu trong đó nợ dài hạn được rải đều ra các năm, thì quốc gia có thể cân đối được các hoạt động vay nợ mới để trả nợ cũ, do đó không chịu sức ép của nợ nần.
Khi một quốc gia lâm vào tình trạng phá sản, nghĩa là họ không còn thanh toán được các khoản tín dụng nước ngoài hoặc không có ngoại tệ để chi trả cho nhập khẩu. Điều ít người biết là, theo nhà kinh tế học Ken Rogoff của ĐH Harvard, việc các nước bị vỡ nợ không phải là bất thường: “Nhiều nước đã phá sản mà thậm chí họ không biết; chuyện ấy thậm chí không được ghi lại trong sách lịch sử của họ. Nhiều nước phá sản ít nhất vài lần”. Hậu quả của vỡ nợ là quốc gia đó không còn khả năng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ cần thiết, thậm chí thiết yếu; nạn tháo vốn bùng nổ; và nhất là trong một thời gian dài sẽ không nước nào dám cho họ vay mượn nữa.
Đây là chuyện đã xảy ra với Argentina năm 2001, khi Tổng thống Adolfo Rodríguez Saá tuyên bố ngừng thanh toán nợ, tập trung vào “nghĩa vụ trong nước của nhà nước đối với dân chúng”. Hậu quả là nền kinh tế sụp đổ, biểu tình bạo loạn càng tồi tệ hơn, ngân hàng phải đóng cửa để ngăn chặn tháo vốn. Ác mộng kéo dài khoảng vài năm, cho đến khi vì đồng peso mất giá mà giá hàng hóa của Argentina lại thành ra rẻ trên thị trường quốc tế, xuất khẩu gia tăng và ngoại tệ lại đổ về, các nước khác lại tiếp tục cho vay. Nhà kinh tế Paul Blustein nhận định bài học rút ra là cách thức tuyên bố phá sản; phải làm sao để mọi sự diễn ra có trật tự, không đột ngột, để tránh gây sốc và thảm họa.
Nợ công của Việt Nam: Rủi ro lại nằm ở… DNNN
Như trên đã phân tích, đặt trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thấp và doanh nghiệp phá sản hàng loạt dẫn đến thất thu thuế, tình trạng nợ công của Việt Nam hiện nay không phải là lành mạnh. Điều may mắn là xét về cấu trúc, các khoản nợ phần lớn là vay ưu đãi trong thời hạn dài với lãi suất thấp, cho nên hiện tại chưa có nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng nợ công nào.
Tuy nhiên, một điều cũng ít người biết là về lâu về dài, khối DNNN mới là mối đe dọa đối với nợ công. Rủi ro nằm ở những khoản vay mượn nước ngoài của DNNN, do Nhà nước đứng ra bảo lãnh (chính là “nợ chủ quyền” – “sovereign debt”) và trong tương lai sẽ được Nhà nước hỗ trợ chi trả bằng tiền ngân sách. Sự hỗ trợ sẽ diễn ra dưới các hình thức khoanh nợ, giãn nợ (còn được gọi một cách kỹ thuật là “tái cấu trúc nợ”, chuyển từ vay ngắn hạn thành vay dài hạn), thậm chí xóa nợ.
Trong một bài báo trên Thời báo Kinh tế Việt Nam, tháng 9 năm ngoái, ông Nguyễn Quang Dũng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), đã cho biết: “Nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm khoảng 75%-80% tổng dư nợ của VDB. Tình hình như hiện nay có rất nhiều đồng chí lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty có văn bản gửi cho tôi đề nghị lùi nợ, giãn nợ”.
Tính đến tháng 9-2011, tổng nợ của khối DNNN được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 17,5% dư nợ của DNNN. Khó mà khẳng định được tỉ lệ này là cao hay thấp nhưng với chất lượng điều hành và hoạt động kinh doanh ở các tập đoàn Nhà nước, cũng như xét những bê bối Vinashin, Vinalines… vừa qua, thì khả năng Nhà nước phải thâm hụt ngân sách vì nợ công là một rủi ro hoàn toàn có thể thành hiện thực.
Rủi ro gia tăng về nghĩa vụ nợ dự phòng
Nợ công của Việt Nam vẫn đang ở mức bền vững, song mọi người ngày càng nhận thức rõ được rằng nghĩa vụ nợ dự phòng có thể là một mối nguy lớn. Tổng số nợ nước ngoài do chính phủ đi vay và được Chính phủ bảo lãnh tăng gần 50% kể từ năm 2008 (21,8 tỉ hoặc 21% GDP) cho đến cuối năm 2010 (32,5 tỉ hoặc 32,7% GDP) do Chính phủ áp dụng gói kích thích tài khóa. Mặc dù vay nợ của Chính phủ từ các nhà đầu tư nước ngoài tăng từ khoảng 3 tỉ USD trong năm 2008 lên 5,4 tỉ USD năm 2010, song 80% nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh vẫn là nợ dài hạn và nợ ưu đãi từ các nguồn viện trợ chính thức. Nợ công trong nước tăng từ khoảng 18% GDP trong giai đoạn 2006-2008 lên khoảng 21,5% GDP trong năm 2010, nguyên nhân cũng là do gói kích thích tài khóa.
Mặc dù mức nợ hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát, song những rủi ro về nghĩa vụ nợ tiềm ẩn từ các DNNN và khu vực tài chính là không nhỏ. Những nghĩa vụ nợ tiềm ẩn không được phản ánh trong số liệu thống kê về nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh là một nguồn gốc bất trắc đáng kể.
Chính phủ sẽ phải tìm cách để cân bằng một cách hợp lý giữa hai mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và xây dựng một nền kinh tế hiệu quả và năng suất cao trong dài hạn. Chính phủ quan niệm rằng phần lớn các tập đoàn kinh tế nhà nước đều hứa sẽ cắt giảm chi phí thông qua cải thiện hiệu quả hoạt động. Nếu như DN không có khả năng làm ăn có lãi hay tự mình đứng vững được thì Chính phủ lại phải bù đắp cho họ thông qua ngân sách.
Tuy nhiên, dư địa tài khóa cho những biện pháp kiểu trợ cấp như thế này không còn nhiều
Theo PLTP
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông