Lần đầu tiên trong lịch sử, Ngân hàng Nhà nước công bố công khai một cách có hệ thống các thông tin về hoạt động tín dụng theo Thông tư 35/2011.
Theo đó, tổng tín dụng tính đến 30/4/2012 là 2.617.320 tỷ đồng, giảm 0,59% so với cuối năm 2011. Trong đó, tín dụng cho công nghiệp chế biến, chế tạo có tăng trưởng 5,19% lên 607.846 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ toàn hệ thống.
Tổng huy động từ dân cư có mức tăng mạnh 11,78% trong 4 tháng, lên 1.449.453 tỷ đồng trong khi tiền gửi của doanh nghiệp lại giảm 5,6% xuống 1.084.405 tỷ đồng.
Tính tổng, huy động từ dân cư và doanh nghiệp tăng 88 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,6% lên 2.533.858 tỷ đồng.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân tích và Tư vấn đầu tư – Khách hàng cá nhân của Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI Research), tiền gửi doanh nghiệp giảm có thể giải thích bằng hai nguyên nhân. Thứ nhất, các doanh nghiệp rất thiếu vốn nên đã tích trữ tiền để cho vay lẫn nhau mà không qua hệ thống ngân hàng. Thứ hai, kinh tế khó khăn khiến lợi nhuận và dòng tiền của doanh nghiệp giảm làm lượng tiền gửi ngân hàng cũng giảm.
Trong khi đó, tổng phương tiện thanh toán đến cuối tháng 4 là 3.035.790 tỷ đồng, tăng 3,14% (92 nghìn tỷ đồng), thấp hơn mức tăng của huy động.
Theo nhận định của SSI Research, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và huy động có thể giải thích được bằng việc Ngân hàng Nhà nước đã bơm khoảng 180 nghìn tỷ đồng ra thị trường để mua USD. Nếu trừ đi lượng tiền hút về qua OMO và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (120-140 nghìn tỷ đồng) thì lượng tiền chưa hút về vẫn còn 40-60 nghìn tỷ đồng.
Tỷ lệ tín dụng/huy động toàn hệ thống đến 30/4 là 86%, tương đối cao so với tỷ lệ 80% theo Thông tư 13. Điều đáng nói là tỷ lệ này ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước là 107,8% trong khi ở khối ngân hàng thương mại cổ phần chỉ là 77,6%.
Như vậy, khối ngân hàng thương mại Nhà nước có vẻ đang hoạt động “thiếu an toàn” hơn so với khối ngân hàng thương mại cổ phần. Điều này cũng thể hiện ở tỷ lệ an toàn vốn của khối ngân hàng thương mại Nhà nước là 10,8% trong khi của khối ngân hàng thương mại cổ phần là 14,2%.
Trong các khối ngân hàng, khối ngân hàng liên doanh và nước ngoài có tỷ lệ an toàn vốn cao nhất 32,54%, còn tỷ lệ an toàn vốn tính chung của hệ thống là 14,55% (cao hơn khá nhiều mức an toàn 9% quy định tại Thông tư 13).
Nhờ có các đợt tăng vốn do phát hành cho cổ đông nước ngoài và trong nước mà vốn tự có của khối ngân hàng thương mại Nhà nước tăng 12,5% trong 4 tháng, cao hơn mức 5,55% của ngân hàng thương mại cổ phần. Dù vốn tăng nhanh nhưng tỷ lệ sinh lời ROA và ROE của ngân hàng thương mại Nhà nước vẫn cao, 0,43% và 4,87%, gần gấp đôi so với ROA và ROE của khối ngân hàng thương mại cổ phần (0,23% và 2,51%).
Tổng tài sản toàn hệ thống cuối tháng 4 giảm 1,83% xuống còn 4.868.649 tỷ đồng. Mức giảm diễn ra ở cả ngân hàng thương mại Nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng mức giảm của ngân hàng thương mại Nhà nước thấp hơn (-1,74%) so với mức giảm 2,3% của ngân hàng thương mại cổ phần.
Top 9 ngành kinh tế có dư nợ tín dụng cao nhất tính đến ngày 30/4/2012:
Theo VnEconomy
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông